TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 84/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại Trung tâm văn hóa xã Phú Hưng, T phố Bến Tre, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 78/2017/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Liêu Hoàng V (V Quang M), sinh năm 1979; Nơi cư trú: Số 24E1, ấp B, xã M, T phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Chăn nuôi (nuôi gà); Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Liêu Kim Q, sinh năm 1956 và bà Võ Thị T, sinh năm 1955; Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là người con lớn nhất trong gia đình; Vợ: Phạm Thị T T, sinh năm 1979 (đã ly hôn) ; có 01 người con sinh năm 1999; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 16/6/2017 cho đến nay, (Có mặt).
* Người làm chứng:
1/ Võ Thị Minh C, sinh năm 1996; (vắng mặt).
2/ Võ Thị Minh N, sinh ngày 24/02/2000; (vắng mặt).
Cùng nơi cư trú: Số 123D, ấp A, xã M, T phố BT, tỉnh Bến Tre.
3/ Lê Quang V, sinh năm 1976; (vắng mặt).Nơi cư trú: Số 66F, khu phố 3, phường P, T phố BT, tỉnh Bến Tre.
4/Châu Ngọc Q, sinh năm 1973; (vắng mặt). Nơi cư trú: Số 12/52 đường N, phường 1, T phố BT, tỉnh Bến Tre.
5/ Nguyễn Lê Phúc T, sinh năm 1989; (vắng mặt). Nơi cư trú: Số 93G, ấp B, xã M, T phố BT, tỉnh Bến Tre.
6/ Bùi Thị Ngọc T, sinh năm 1976; (vắng mặt). Nơi cư trú: Số 804C, ấp P, xã PH, T phố BT, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 10 phút ngày 15/6/2017, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an T phố Bến Tre phối hợp với Công an phường 8, T phố Bến Tre tiến hành kiểm tra hành chính nhà số 565C1, khu phố X, phường A, T phố Bến Tre do Liêu Hoàng V thuê để ở thì phát hiện trong phòng thứ nhất của lầu 1 (phòng ngủ của V) có 01 túi nylon, bên trong chứa 01 viên nén màu xám và 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. V khai nhận: 02 túi nylon trên là ma túy của V và trước khi Công an đến kiểm tra, tại phòng ngủ của mình, V có cất giấu nhiều túi nylon, bên trong chứa ma túy để bán lại cho người khác. Khi nghe lực lượng Công an đến kiểm tra, do sợ bị phát hiện nên V lấy ma túy ném qua cửa sổ và lam gió nhà số 565C1, khu phố X, phường A, T phố Bến Tre. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện và thu giữ số ma túy mà V vừa ném ra ngoài và làm rớt trong nhà số 565C1 nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với V.
Vật chứng thu giữ:
- Thu trên chiếu trong phòng thứ nhất của lầu 1 (tính từ trên xuống): 01 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong có 01 viên nén màu xám (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 1).
- Thu trên khung cửa sổ trong phòng thứ ba của lầu 1 (tính từ trên xuống): 01 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 2).
- Thu trên lam gió trong phòng vệ sinh của lầu 1: 02 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 3).
- Thu trong chậu cây, bên ngoài phía dưới cửa sổ phòng thứ nhất: 01 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 4).
- Thu trên mái nhà số 570C, khu phố 2, phường 8 (đối diện cửa sổ phòng thứ nhất của lầu 1 nhà số 565C1): 02 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 5).
- Thu trên mặt đất (dưới lam gió nhà vệ sinh của lầu 1): 07 túi nylon được hàn kín, trên miệng túi có sọc đỏ chạy ngang và có rãnh dán lại, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 6), 01 cân điện tử, 02 quẹt ga, 01 bình gas, 10 ống hút nhựa và 01 kéo kim loại màu trắng.
Tất cả các phong bì được niêm phong ký hiệu số 1, 2, 3, 4, 5 và 6, đều có chữ ký và ghi tên Liêu Hoàng V, Nguyễn Lê Phúc T, Châu Ngọc Q, Bùi Thị Ngọc T, V Anh K, Nguyễn Thị L và dấu tròn màu đỏ của Công an phường 8, T phố Bến Tre.
Qua làm việc, Liêu Hoàng V khai nhận: Vào ngày 11/6/2017, V điều khiển xe mô tô lên T phố Hồ Chí Minh gặp một người tên T (không rõ họ và địa chỉ cụ thể) để bán 04 con gà. Đến ngày 12/6/2017, V bán 04 con gà cho T với giá 5.000.000 đồng nhưng V không lấy tiền mà đổi lấy 01 gói ma túy đá và T còn cho V thêm 01 viên nén nói là thuốc lắc rồi V đem gói ma túy đá về trại gà ở phường Phú Khương, T phố Bến Tre phân ra T nhiều gói nhỏ và đã bán cho những người nghiện, cụ thể:
Bán cho Lê Quang V (tên thường gọi: V Hà Mã; SN: 1976; ĐKTT: Số 66F, khu phố 3, phường P, T phố BT) 04 lần/04 gói ma túy đá thu được 1.200.000 đồng:
- Lần thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 13/6/2017, tại đầu hẻm tổ nhân dân tự quản số 14 và 15 thuộc khu phố 6, phường Phú Khương, T phố Bến Tre (gần tiệm game bắn cá D), V bán cho V 01 gói ma túy đá thu được 300.000 đồng.
- Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 13/6/2017, tại đầu hẻm tổ nhân dân tự quản số 14 và 15 thuộc khu phố 6, phường Phú Khương, T phố Bến Tre (gần tiệm game bắn cá Duy Khương), V bán cho V 01 gói ma túy đá thu được 300.000 đồng.
- Lần thứ ba: Khoảng 07 giờ ngày 14/6/2017, tại đầu hẻm tổ nhân dân tự quản số 14 và 15 thuộc khu phố 6, phường Phú Khương, T phố Bến Tre (gần tiệm game bắn cá Duy Khương), V bán cho V 01 gói ma túy đá thu được 300.000 đồng.
- Lần thứ tư: Khoảng 14 giờ ngày 15/6/2017, tại đầu hẻm tổ nhân dân tự quản số 14 và 15 thuộc khu phố 6, phường Phú Khương, T phố Bến Tre (gần tiệm game bắn cá D), V bán cho V 01 gói ma túy đá thu được 300.000 đồng.
Khoảng 23 giờ ngày 14/6/2017, tại khu vực gần chợ Lạc Hồng thuộc phường Phú Khương, T phố Bến Tre, V bán cho Võ Thị Minh N (SN: 24/02/2000; ĐKTT: Số 123D, ấp A, xã M, T phố BT) 01 gói ma túy đá thu được 300.000 đồng.
Còn lại 14 gói ma túy đá V đem về cất giấu tại nhà của V thuê ở số 565C1, khu phố A, phường B, T phố Bến Tre. Đến khoảng 23 giờ 10 phút ngày 15/6/2017 thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra, phát hiện và thu giữ toàn bộ số ma túy như trên.
Ngoài ra, khoảng 17 giờ ngày 06/4/2017, tại nhà nghỉ Song Nguyễn ở phường Phú Khương, T phố Bến Tre, V còn bán cho Võ Thị Minh C (SN: 1996; ĐKTT: Số 123D, ấp A, xã M, Thành phố BT) 01 gói ma túy đá thu được 200.000 đồng.
Theo Kết luận giám định số 2106/C54B ngày 16/6/2017 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Gói ký hiệu 1:
+ Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định có trọng lượng là: 0,2293 gam, có Methamphetamine.
+ 01 viên nén màu xám đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định không tìm thấy T phần các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 07 năm 2013 và Nghị định số 126/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ (mẫu có Dimethyl Sulfone).
- Gói ký hiệu 2: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định có trọng lượng là: 0,1937 gam, có Methamphetamine.
- Gói ký hiệu 3: Tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 0,4412 gam, có Methamphetamine.
- Gói ký hiệu 4: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định có trọng lượng là: 0,4834 gam, có Methamphetamine.
- Gói ký hiệu 5: Tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 8,1572 gam, có Methamphetamine.
- Gói ký hiệu 6: Tinh thể màu trắng đựng trong 07 gói nylon được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 1,4794 gam, có Methamphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, NĐ 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 07 năm 2013 của Chính Phủ
Tại bản cáo trạng số 77/KSĐT-MT ngày 16 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân T phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Liêu Hoàng V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà:
Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm o, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Liêu Hoàng V từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 04 phong bì niêm phong vụ số 2106/3, 2106/4, 2106/5, 2106/6 của phân viện khoa học hình sự tại T phố Hồ Chí Minh ghi ngày 16/6/2017, có chữ ký niên phong của giám định viên Trần Thị Thanh T và người chứng kiến Nguyễn Hồng T chứa Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 cân điện tử; 002 quẹt ga, 01 bình gas; 10 đoạn ống hút nhựa; 01 kéo kim loại màu trắng; Buộc bị cáo nộp số tiền 1.700.000 đồng thu lợi bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy để sung quỹ Nhà nước. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo V khai nhận bị cáo đã 06 lần bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng tên Lê Quang V, Võ Thị Minh C, Võ Thị Minh N. Số ma túy mà cơ quan công an thu giữ ngày 05/6/2017 tại nhà số 565C1 khu phố 2, phường 8 là của bị cáo đã mua từ T phố Hồ Chí Minh về để bán cho V được 04 lần còn lại bị cáo chưa kịp bán thì bị công an thu giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên sơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an T phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân T phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và người làm chứng không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đối với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên Hội đồng xét xử xử vắng mặt người làm chứng là phù hợp quy định tại 192 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc xét xử vắng mặt những người làm chứng là phù hợp.
[2] Bị cáo V có lời khai từ ngày 06/4/2017 đến ngày 15/6/2017, tại khu vực phường Phú Khương, T phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, bị cáo V đã có hành vi 06 lần bán trái phép 06 gói ma túy đá cho Lê Quang V, Võ Thị Minh C và Võ Thị Minh Ng thu được 1.700.000 đồng. Ngoài ra, vào ngày 16/6/2017, tại nhà số 565C1, khu phố 2, phường 8, T phố Bến Tre, trong lúc V đang cất giữ trái phép 10,9842 gam ma túy loại Methamphetamine để bán lại cho những người khác nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Lời khai này phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang ngày 16/6/2017, lời khai của những người làm chứng, phù hợp với kết quả giám định của cơ quan Kỹ thuật hình sự Bộ công an tại T phố Hồ Chí Minh. Kết quả giám định gói thu giữ trong nhà bị cáo nghi là chất ma túy được kết luận là chất Methamphetamine, có trọng lượng 10,9842 gam.
[3] Bị cáo V là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật cấm, bị cáo đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nghiện để thu lợi bất chính nhằm phục vụ cho việc tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng, đã xâm phạm đến các quy định về phòng, chống và kiểm soát chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Lời phát biểu ủa kiểm sát viên về tội danh đối với bị cáo, bị cáo thừa nhận không phản đối, lời phát biểu của kiểm sát viên phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự nơi bị cáo thực hiện tội phạm, nguy cơ phát sinh các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.
[5] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, thực hiện một mình với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo có nhân thân tốt. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng là T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy không bị bắt quả tang được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở T công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung. Bị cáo không ý kiến gì phản bác đối các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như hình phạt áp dụng mà Kiểm sát viên đề nghị. Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp nên được chấp nhận.
[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: 04 phong bì niêm phong vụ số 2106/3, 2106/4, 2106/5, 2106/6 của phân viện khoa học hình sự tại T phố Hồ Chí Minh ghi ngày 16/6/2017, có chữ ký niên phong của giám định viên Trần Thị Thanh T và người chứng kiến Nguyễn Hồng T chứa 8,1169 gam Methamphetamine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 cân điện tử; 02 quẹt ga, 01 bình gas; 10 đoạn ống hút nhựa; 01 kéo kim loại màu trắng là công cụ bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Bị cáo V đã 06 lần bán trái phép 06 gói ma túy cho những đối tượng nghiện để thu lợi bất chính 1.700.000 đồng nên cần buộc bị cáo nộp để sung quỹ Nhà nước. Đối tượng tên T, bị cáo khai bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được tên họ đầy đủ và địa chỉ rõ ràng, cơ quan điều tra chưa làm việc được với T, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo V phải nộp theo quy định của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Liêu Hoàng V (V Quang Mo) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo: Liêu Hoàng V (V Quang Mo) 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2017.
2. Áp dụng các Điều 41, 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 04 phong bì niêm phong vụ số 2106/3, 2106/4, 2106/5, 2106/6 của phân viện khoa học hình sự tại T phố Hồ Chí Minh ghi ngày 16/6/2017, có chữ ký niên phong của giám định viên Trần Thị Thanh T và người chứng kiến Nguyễn Hồng T chứa 8,1169 gam Methamphetamine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành;
+ 01 cân điện tử;
+ 02 quẹt ga,
+ 01 bình gas;
+10 đoạn ống hút nhựa;
+ 01 kéo kim loại màu trắng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/10/2017, hiện Chi cục Thi hành án dân sự T phố Bến Tre quản lý).
-Buộc bị cáo Liêu Hoàng V (V Quang Mo) phải nộp số tiền 1.700.000 (một triệu bảy trăm nghìn) đồng thu lợi bất chính sung quỹ nhà nước.
3. Áp dụng Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Liêu Hoàng V (V Quang Mo) phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 84/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 84/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về