Bản án 84/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 84/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 23/2017/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 01 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95A/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/7/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 90/QĐHPT-ST ngày 08/8/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi M. H.       - Sinh năm: 1988

Cư trú tại: thôn N, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Bị đơn: Ông  Ngô Đ. D - Sinh năm: 1984

Cư trú tại: thôn N, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản phiên họp về việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Bùi M. H trình bày: Bà và ông Ngô Đ. D đăng ký kết hôn năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã N. Quá trình chung sống, do ông D có tính gia trưởng, hay nhậu nhẹt và không có trách nhiệm với vợ con. Từ đó làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, mâu thuẫn căng thẳng, trầm trọng và kéo dài, bà đã ly thân từ cuối năm 2016 đến nay và không còn quan tâm, tình cảm với nhau nữa nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông D. Về con chung: vợ chồng bà có 02 con chung tên Ngô Đ. T - sinh ngày 02/9/2011 và Ngô Đ. N, sinh ngày 25/7/2014, bà yêu cầu được nuôi hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Ngô Đ. D được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên không lấy được lời trình bày.

Tại phiên tòa, Đại diên viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn bà H yêu cầu được ly hôn với ông D vì bất đồng quan điểm, mâu thuẩn trầm trọng và không còn quan tâm đến nhau vì vậy đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về con chung, nguyên đơn yêu cầu được nuôi hai con chung là Ngô Đ. T - sinh ngày 02/9/2011 và Ngô Đ. N, sinh ngày 25/7/2014 và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà H phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung, bà H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Ngô Đ. D vẫn vắng mặt. Vì vậy, áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Bùi M. H yêu cầu được ly hôn với ông Ngô Đ. D nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H, ông D tự nguyện chung sống, kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã N cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01 ngày 08/2/2010 nên Tòa công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Bùi M. H và ông Ngô Đ. D là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, thì theo lời trình bày của nguyên đơn là do tính tình không hợp nhau, ông D có tính gia trưởng hay rượu chè, bỏ bê gia đình không có trách nhiệm với vợ con. Từ đó làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, mâu thuẫn căng thẳng, trầm trọng và kéo dài dẫn đến không còn tình cảm với nhau. Vợ chồng bà đã ly thân và không quan tâm đến nhau từ cuối năm 2016 đến nay. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà H, ông D thể hiện trong “ cuộc sống vợ chồng xảy mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, ông D luôn tìm cách gây sự nên không còn sống chung với nhau nữa”. Ông D đã được tòa triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng vẫn không có mặt là tự tước bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do vậy, xét thấy tình cảm của bà H không còn đối với ông D, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Bùi M. H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Tại phiên tòa, bà H yêu cầu được nuôi hai con chung đồng thời không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Ông D không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung là tự từ bỏ quyền yêu cầu được nuôi con chung của mình. Hiện tại, các cháu Ngô Đ. T - sinh ngày 02/9/2011 và Ngô Đ. N, sinh ngày 25/7/2014 đang còn nhỏ. Do vậy, căn cứ vào các Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao hai con chung cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp và bảo đảm được quyền lợi cho các cháu là hợp lý.

Ông D có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3.3] Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà Bùi M. H phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, 147, 227, 264, 271 vàĐiều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Bà Bùi M. H được ly hôn với ông Ngô Đ. D.

2. Về con chung: Giao hai cháu Ngô Đ. T - sinh ngày 02/9/2011 và Ngô Đ. N, sinh ngày 25/7/2014 cho bà Bùi M. H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng qua lại nuôi con chung.

Ông D có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Bà Bùi M. H phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là300.000đ nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên laithu tiền số AA/2016/0013016 ngày 16/01/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 84/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về ly hôn

Số hiệu:84/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;