TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 83/2023/HS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 24/11/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2023/TLST - HS ngày 26/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2023/QĐXXST - HS ngày 10/11/2023 đối với bị cáo:
Vũ Văn C, sinh năm 1980; giới tính: Nam; nơi đăng ký thường trú: Thôn V, xã L, huyện B, tỉnh Hà Nam; chỗ ở trước khi bị bắt, tạm giữ, tạm giam: Tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; Đảng, đoàn: Không; con ông Vũ Văn H và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Tống Thị L và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2019.
Tiền án: Ngày 24/6/2021 bị TAND huyện B xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến ngày 10/7/2023 chấp hành xong án phạt tù.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: - Ngày 15/10/2007 bị TAND tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng về tội “Đánh bạc”.
- Ngày 15/7/2011 bị TAND huyện B xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc”, đến ngày 13/7/2012 chấp hành xong án phạt tù.
- Ngày 11/12/2012 bị Công an huyện B xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự” số tiền 1.500.000 đồng, chấp hành xong ngày 14/12/2012.
- Ngày 12/6/2014 bị TAND huyện V, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Đánh bạc”, đến ngày 08/4/2015 chấp hành xong án phạt tù.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/8/2023, chuyển tạm giam từ ngày 06/9/2023; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ ngày 28/8/2023 bị cáo Vũ Văn C đi từ nơi ở tại tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam đến khu vực BigC thuộc thành phố N, tỉnh Nam Định để tìm mua ma túy dạng đá về sử dụng. Tại đây bị cáo C đã mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng, sau đó C đi về nơi ở. Đến khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, khi đang đi bộ tại khu vực Cầu Chéo thuộc tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B để tìm nơi sử dụng thì C bị tổ công tác Công an huyện B phối hợp với Công an thị trấn B yêu cầu kiểm tra. C tự giác giao nộp gói ma túy cho lực lượng Công an và khai nhận đó là ma túy dạng đá, C vừa mua được, cất giữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang: 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu xanh, mở ra bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT.
Cơ quan CSĐT Công an huyện B khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn C tại tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan.
Tại bản Kết luận giám định số 592/KL-KTHS ngày 04/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,134g (không phẩy một trăm ba mươi tư gam), loại Methamphetamine”.
Tại Cáo trạng số 82/CT - VKS - MT ngày 25/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam đã truy tố Vũ Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo C đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung vụ án đã nêu ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện B; Viện kiểm sát nhân dân huyện B và hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo không có khiếu nại gì về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng.
[2] Về tội danh: Hành vi tàng trữ trái phép 0,134 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Vũ Văn C bị lực lượng Công an huyện B bắt quả tang vào khoảng 20 giờ 50 phút ngày 28/8/2023 tại khu vực Cầu Chéo thuộc tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo phải chịu tình tiết “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; vi phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm do vậy Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Hội đồng xét xử xét cũng xem xét đến nhân thân, hoàn cảnh gia đình và lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định mức hình phạt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét tại biên bản xác minh tài sản của Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã xác định bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng của vụ án: Xét số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành do vậy cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định.
[8] Các tình tiết khác liên quan đến vụ án: Tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án không đủ căn cứ để xác định được nguồn gốc số ma túy, đối tượng bán ma túy cho bị cáo C để xem xét, xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14.
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ (ngày 28/8/2023).
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong có số 592/KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.
Vật chứng được xác định theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/10/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Văn C phải nộp 200.000 đồng.
Án xử công khai; báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 83/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy đá)
Số hiệu: | 83/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về