TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 83/2020/HSST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 8 năm 2020. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2020/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 145/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đỗ Đình N (tên gọi khác: không) - sinh ngày: 01/8/1971 tại thành phố C; Hộ khẩu thường trú: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Đình T, sinh năm 1932; Hộ khẩu thường trú: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1933 (đã chết); Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ, con: chưa có.
Tiền án: có 01 tiền án, ngày 24/7/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Tiền sự: Không. Nhân thân:
Ngày 30/7/1998 bị Công an tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.
Ngày 28/7/2003 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 6 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Ngày 26/11/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 7 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng từ ngày 20/4/2020 đến nay; "Có mặt tại phiên tòa".
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 45 phút ngày 19/3/2020 tại khu vực tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, tổ công tác Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng bắt quả tang Đỗ Đình N (sinh ngày 01/8/1971; Hộ khẩu thường trú: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột (N khai nhận đây là Heroine) thu giữ trong túi quần đằng trước bên trái N đang mặc, tiền Việt Nam: 570.000đ (năm trăm bảy mươi nghìn đồng).
Ngày 19/3/2020 Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng ra yêu cầu tra cứu tiền án, tiền sự đối với Đỗ Đình N. Tại Trích lục tiền án, tiền sự số 940 ngày 19/3/2020 của Phòng hồ sơ Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Đỗ Đình N có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích theo Bản án hình sự sơ thẩm số 93 ngày 24/7/1999. Cùng ngày, Công an phường Sông Bằng đã bàn giao hồ sơ vụ việc cùng toàn bộ vật chứng đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng để giải quyết theo thẩm quyền.
Vào hồi 16 giờ 10 phút ngày 19/3/2020 tại Công an thành phố Cao Bằng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tiến hành cân xác định khối lượng tang vật thu giữ của Đỗ Đình N, kết quả: khối lượng chất bột màu trắng là 0,03g (không phẩy không ba gam).
Ngày 14/4/2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra Quyết định trưng cầu giám định số 96 đối với vật chứng vụ án. Tại bản Kết luận giám định số 119 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng, kết luận:“Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.
Quá trình điều tra xác định: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 19/3/2020, N đi bộ từ nhà riêng tại tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng đến khu vực bến xe khách cũ thuộc tổ H, phường S, thành phố C để tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Tại đây, N gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ), dáng giống người nghiện nên đã hỏi mua Heroine. Nời này đồng ý. N đưa cho người đàn ông này số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng), người này cầm tiền rồi đưa cho N 01 (một) gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa Heroine. N cầm gói Heroine trên cất vào trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Đến 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi N đi đến khu vực tổ N, phường S, thành phố C thì bị Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.
Hành vi của Đỗ Đình N đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại bản Cáo trạng số 73/CT-VKSTP ngày 08 tháng 7 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố Đỗ Đình N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của Đỗ Đình N đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Tại phiên tòa Đỗ Đình N khai nhận về hành vi phạm tội của mình: Ngày 19/3/2020, N được mua 01 (một) gói Heroine với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) với một Nời đàn ông dáng giống Nời nghiện ma túy tại khu vực bến xe khách cũ thuộc phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Sau khi mua được Heroine, N đi về nhà. Đến 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi N đang trên đường đi về nhà (đến gần nhà ở khu vực tổ N, phường S, thành phố C) thì bị Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng bắt quả tang thu giữ vật chứng (gồm gói heroine vừa mua được và tiền mặt). Đây là lần đầu tiên N mua ma túy với Nời đàn ông đó nên N không biết họ tên, địa chỉ của Nời đó. N mua số ma túy "Heroine" đó về mục đích là để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đỗ Đình N nhất trí với khối lượng ma túy (heroine) bị thu giữ và nội dung bản kết luận giám định số 119 ngày 24/4/2020 và không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng.
Vật chứng bị thu giữ: 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột thu giữ trong túi quần đằng trước bên trái N đang mặc là số Heroine N mua ngày 19/3/2020 (vật chứng của vụ án); Tiền Việt Nam 570.000đ (năm trăm bảy mươi nghìn đồng), trong đó có 450.000đ là tiền do bố đẻ cho để N đi đăng ký uống thuốc Methadone; còn 120.000đ là tiền do bị cáo đi nhặt ve chai mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội của N. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì đối với số tiền bị thu giữ.
Tại phiên toà Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đỗ Đình N về tội danh, điều luật như đã nêu trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm năm 2015. Tuyên bố: bị cáo Đỗ Đình N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Về hình phạt chính: đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Đình N với mức án từ 12 đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định; Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo số tiền 570.000đ (năm trăm bảy mươi nghìn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; Về án phí, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật để sung công quỹ nhà nước.
Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng.
Khi được nói lời sau cùng bị cáo biết hành vi bị cáo thực hiện là sai là vi phạm pháp luật, bị cáo không có ý kiến gì với Hội đồng xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, Nời tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, Nời tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Đỗ Đình N khai nhận về hành vi phạm tội của mình: Khoảng 08 giờ ngày 19/3/2020, N đi bộ từ nhà riêng tại tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng đến khu vực bến xe khách cũ thuộc phường S, thành phố C để tìm mua Heroine. Tại đây, N gặp một Nời đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ), dáng giống Nời nghiện nên đã hỏi mua Heroine. Nời này đồng ý. N đưa cho Nời đàn ông số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng), Nời này cầm tiền rồi đưa cho N 01 (một) gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa Heroine. N cầm gói Heroine trên cất vào túi quần đằng trước bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng hơn 09 giờ cùng ngày khi N đi về đến gần nhà ở khu vực tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng (Heroine, tiền mặt). Mục đích N mua số Heroine đó về để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định: Vào hồi 09 giờ 45 phút ngày 19/3/2020 tại khu vực tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Công an phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng bắt quả tang Đỗ Đình N có hành vi tàng trữ trái phép 0,03g (không phẩy không ba gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Đỗ Đình N có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hành vi của Đỗ Đình N đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về chất ma túy. Bị cáo là Người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Là Người đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình gây ra.
Mục đích của bị cáo là mua số Hêrôin đó về để sử dụng cho bản thân, không có mục đích khác, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Trong vụ án này Hội đồng xét xử xác định bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khối lượng ma túy (heroine) bị cáo tàng trữ là 0,03g (không phẩy không ba gam) nhưng do Đỗ Đình N có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên N phải chịu trách nhiệm hình sự.
Do vậy, hành vi của Đỗ Đình N đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a. Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
...” Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hàng quốc cấm, pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy... đồng thời hiểu biết được sự nguy hiểm và tác hại của chất ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khối lượng ma túy (heroine) bị cáo tàng trữ là 0,03g (không phẩy không ba gam) nhưng Đỗ Đình N có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, N phạm tội lần này thuộc trường hợp định tội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố Đỗ Đình Nvề tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Đình N là trái pháp luật, là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn là nguyên nhân làm nảy sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng do nhu cầu sử dụng của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là đúng và cần thiết. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật, có như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Đỗ Đình N là người có năng lực nhận thức, năng lực hành vi nhưng do lối sống buông thả, không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, bị cáo đã sử dụng ma túy và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bản thân đã nhiều lần bị kết án về tội Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy: Ngày 24/7/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích); Ngày 30/7/1998 bị Công an tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 28/7/2003 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 6 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 26/11/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xét nhân thân bị cáo là xấu, là đối tượng nghiện ma túy đã nhiều năm. Mặc dù đã được cái tạo, giáo dục nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình, vẫn coi thường pháp luật, tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận về hành vi mình đã thực hiện (mục đích mua ma túy về để sử dụng, không có mục đích nào khác). Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "thành khẩn khai báo" quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ này.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "thành khẩn khai báo" quy định tại điểm s tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đỗ Đình N với mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đối với bị cáo N là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.
[6] Về hình phạt chính: Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Vì vậy, ngoài hình phạt chính theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì niêm phong mẫu gửi giám định ghi tang vật cân vụ: Đỗ Đình N, sinh năm 1971; HKTT: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 19/3/2020 là mẫu gửi giám định, sau khi giám định cơ quan giám định không hoàn lại mẫu vật nên không xem xét.
Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản bàn giao vật chứng số 89 ngày 09 tháng 7 năm 2020 gồm: 01 (một) phong bì niêm phong tiền Việt Nam 570.000đ (năm trăm bảy mươi nghìn đồng), trong đó có 450.000đ là tiền của bố bị cáo cho bị cáo để đi uống thuốc ARV (Methadonne), còn 120.000đ là tiền do bị cáo lao động mà có. Xét thấy, không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ toàn bộ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.
[9] Về các vấn đề khác:
Trong vụ án này, về nguồn gốc số Heroine thu giữ khi bắt quả tang, bị cáo khai được mua với một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) ở khu vực bến xe khách cũ thuộc tổ 02, phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng, việc trao đổi mua bán ma túy không có ai biết và chứng kiến. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đình N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Xử phạt: Bị cáo Đỗ Đình N 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/4/2020.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Xử trả lại cho bị cáo Đỗ Đình N: 01 (một) phong bì niêm phong tiền Việt Nam 570.000đ (năm trăm bảy mươi nghìn đồng). Mặt sau có chữ ký của nhân viên Ngân hàng cùng 03 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng (kèm Kết luận giám định tiền số 471/KL - CAB ngày 23/6/2020) nhưng cần tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.
Xác nhận số vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản bàn giao vật chứng số 89 ngày 09/7/2020.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử:
Bị cáo Đỗ Đình N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 83/2020/HSST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về