TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 83/2020/HSST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXXST-HS ngày 17/3/2020 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn B, tên gọi khác: Không; sinh ngày 17 tháng 9 năm 1983; ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Ch, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hiến (Đã chết) và con bà Lê Thị L; có vợ là Vũ Thị Th (Đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2007;Tiền án, tiền sự: Không;
- Nhân thân:
+ Tại Bản án số 49/2013/HSST ngày 31/12/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Nguyễn Văn B 28 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/10/2015.
+ Tại Quyết định số 17/QĐ-TA ngày 07/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 28/9/2018.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên; (Có mặt tại phiên tòa)
2. Họ và tên: Nguyễn Văn Kh, tên gọi khác:không; Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1982; ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm X, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C và con bà: Đinh Thị B; có vợ: Nguyễn Thị H có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không - Nhân thân:
+ Tại Bản án số 79/2015/HSST ngày 18/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Văn Kh 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/5/2017.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên;
(Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1971, trú tại: Xóm X, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 00 ngày 09/01/2020, tổ công tác của Công an xã Đồng Liên, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Xuân Đám của xã thì phát hiện 02 người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông thứ nhất khai tên là Nguyễn Văn B và người đàn ông thứ hai khai là Nguyễn Văn Kh. Sau đó Nguyễn Văn B tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên phải ra 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp (B khai là Heroine), kiểm tra Nguyễn Văn Kh không phát hiện thu giữ gì. Bản thân Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh cùng khai nhận gói ma túy Heroine mà cơ quan Công an thu giữ là do B và Kh cùng góp tiền đi mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B và Kh và thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất bột màu trắng trong gói giấy bạc thu giữ của Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh có khối lượng 0,184 gam. Niêm phong trong bì ký hiệu A1 gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 208/KL-KTHS ngày 17/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,184 gam.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh cùng khai nhận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09/01/2020 Nguyễn Văn B đi đến nhà Nguyễn Văn Kh thuộc xóm Chám, xã Đồng Liên, TP Thái Nguyên. Tại đây, B rủ Kh cùng nhau góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. B và Kh mỗi người góp 100.000 đồng, sau đó B là người cầm tiền và cùng nhau đi ra khu vực đường tròn Gang Thép thuộc phường Trung Thành, TP Thái Nguyên để tìm mua ma túy. Tại đây, B gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 30 tuổi, B đã mua 01 gói ma túy của người đàn ông này với giá 200.000 đồng, người đàn ông này đồng ý và đưa cho B 01 gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine. B nhận gói ma túy từ người đàn ông không quen biết và cất vào túi áo khoác bên phải B đang mặc, sau đó B cùng Kh đi tìm nơi để sử dụng số ma túy vừa mua được. Khi đi đến khu vực cầu treo sông Điền thuộc xóm Xuân Đám, xã Đồng Liên, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Công an xã Đồng Liên, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 95/CT-VKSTPTN ngày 02 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo B và Kh khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố.
Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt: Nguyễn Văn B từ 18 đến 24 tháng tù.
Xử phạt: Nguyễn Văn Kh từ 18 đến 24 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo B, bị cáo Kh.
Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong chứa ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của những người tham gia niêm phong.
Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo không tranh luận, bị cáo B, bị cáo Kh thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là không oan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Phần lời nói sau cùng bị cáo B và bị cáo Kh xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Văn B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Văn B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 09/01/2020, xóm Xuân Đám, xã Đồng Liên, thành phố Thai Nguyên , Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh đang có hành vi tàng trữ 0,184 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an xã Đồng Liên, thành phố Thái Nguyên phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi, ý thức của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3]. Bản cáo trạng số 95/CT-VKSTPTN ngày 02/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Văn B về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Nội dung điều 249 quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a,...
c, Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội.
[5] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án này thấy rằng , các bị cáo đồng phạm với vai trò giản đơn , các bị cáo Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Văn B đông pham vơi vai tro là ngươi trưc tiêp thưc hiên tôi pham.
[6] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:
Các bị cáo Nguyễn Văn Kh và Nguyễn Văn B chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân rất xấu, là người nghiện ma túy, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.
[7] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo B, Kh trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.
[8].Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, lời khai tại phiên tòa, các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
[9].Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong chứa ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của những người tham gia niêm phong.
[10]. Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11].Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[12].Các vấn đề khác: Đối với số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn Kh khai đã mua của 01 người đàn ông không rõ lai lịch ở khu vực đường tròn Gang Thép thuộc phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249,điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;
1/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 18 ( Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 09/01/2020. Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn B 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Kh 18 ( Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 09/01/2020.Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn Kh 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo B và bị cáo Kh.
3/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong chứa ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của những người tham gia niêm phong. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 147 ngày 13/02/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).
4/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo B, bị cáo Kh mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.
5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn Kh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án 83/2020/HSST ngày 04/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về