Bản án 83/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 83/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG 

Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 400/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà T - Sinh năm 1994 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số X đường C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Ông T2 – Sinh năm 1988 (có đơn xin vắng mặt tham gia tố tụng).

Địa chỉ: Số Y đường V, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk Trung - huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà T trình bày có nội dung như sau:

Tôi (T) và ông T2 tìm hiểu và tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 11/5/2018.

Quá trình chung sống, tôi và ông T2 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, ông T2 không lo làm ăn chăm sóc gia đình, dẫn đến mâu thuẫn về kinh tế và vợ chồng thường xuyên cãi vã. Năm 2018, ông T2 có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk Trung.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi xin được ly hôn với ông T2.

- Về con chung: Tôi và ông T2 có một con chung là cháu K – Sinh ngày 19/02/2019. Tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K cho đến khi cháu K trưởng thành và không yêu cầu ông T2 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện tôi và cháu K đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ của tôi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Tôi và ông T2 không có sản chung và nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 24/6/2020 tại trại giam Đắk Trung, bị đơn ông T2 trình bày có nội dung như sau:

Tôi và bà T lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào năm 2018. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì tôi đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Tôi và bà T có một con chung là cháu K – Sinh ngày 19/02/2019. Tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn bà T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông T2. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về trình tự, thủ tục tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T2 theo quy định pháp luật. Ông T2 có đơn xin vắng mặt tham gia tố tụng tại Tòa án; nguyên đơn bà T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Xét về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T2 đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 11/5/2018, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, bà T và ông T2 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, nguyên nhân theo bà T trình bày là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, do mâu thuẫn về kinh tế, ông T2 không chăm lo cho gia đình. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T2. Tại Bản tự khai ngày 24/6/2020 tại trại giam Đắk Trung, bị đơn ông T2 đồng ý ly hôn với bà T. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông T2 là không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Xét về con chung: Bà T và ông T2 có một con chung là cháu K – Sinh ngày 19/02/2019. Bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K cho đến tuổi trưởng thành. Hội đồng xét xử xét thấy cháu cháu K còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi). Mặt khác, ông T2 hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk Trung, không đảm bảo việc chăm sóc và nuôi dưỡng cháu K. Do đó vì quyền lợi cũng như đảm bảo sự phát triển tâm sinh lý của trẻ, cần giao cháu K cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông T2 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T và ông T2 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện về yêu cầu xin ly hôn của bà T đối với ông T2. Về quan hệ hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông T2.

Về con chung: Giao con chung cháu K – Sinh ngày 19/02/2019 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Ông T2 có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông T2 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T và ông T2 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố uôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0007980 ngày 25 tháng 5 năm 2020.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 83/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp con chung

Số hiệu:83/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;