TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 83/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG GIỮA ÔNG L VÀ BÀ T
Ngày 14 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 243/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1986 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện C, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Bích T, sinh năm 1998 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 5, xã H, huyện C, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 9 năm 2020 và quá trình xét xử, nguyên đơn ông Nguyên Hoàng L trình bày:
Ông và bà Đặng Thị Bích T chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Long An chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 6 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, không còn chung sống khoảng tháng 6 năm 2019. Ông Nguyễn Hoàng L cho rằng không còn hạnh phúc, không thể kéo dài hôn nhân nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Đặng Thị Bích T.
Về con chung: Hôn nhân giữa ông và bà Đặng Thị Bích T có hai người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2019, hiện con do bà T đang nuôi dưỡng. Ông yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, còn bà T nuôi người con chung có tên là Nguyễn Anh T, không ai cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống ông và bà T không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn bà Đặng Thị Bích T trình bày:
Bà và ông Nguyễn Hoàng L chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Long An chung sống hạnh phúc đến khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau. Bà đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Hoàng L.
Về con chung: Hôn nhân giữa bà và ông L có hai người con chung như ông L trình bày, hiện hai người con chung do bà đang nuôi dưỡng.
Bà giao hai người con chung cho ông L nuôi dưỡng, bà cấp dưỡng nuôi dưỡng hai con chung, mỗi người con, mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng). Hiện nay, bà làm công nhân thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 8.000.000đ (tám triệu đồng).
về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống bà và ông L không tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nguyên đơn ông Nguyên Hoàng L trình bày:
Ông L giữ nguyên yêu cầu mỗi người nuôi một người con chung. Hiện nay, ông làm quản lý kho thanh long thu nhập bình quân khoảng 10.000.000đ (mười triệu đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng L và nơi cư trú của bà Đặng Thị Bích T, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý và giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Ông Nguyễn Hoàng L và bà Đặng Thị Bích T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Long An vào năm 2017 nên quan hệ hôn nhân giữa ông L và Thủy là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa ông Nguyễn Hoàng L và bà Đặng Thị Bích T nhưng ông L cương quyết giữ nguyên nguyện vọng yêu cầu ly hôn với bà T. Đồng thời, bà T cũng xác định: bà T đồng ý ly hôn với ông L. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn giữa ông L và bà T đã trầm trọng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc ông L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà T là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Hôn nhân giữa ông L và bà T có hai người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2019. Ông L yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục một người con chung nhưng bà T không đồng ý, bà T yêu cầu giao cho ông L được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai người con chung bà cấp dưỡng nuôi dưỡng hai người con chung, mỗi người con, mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng) nhưng ông L không đồng ý.
Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông L có hai người con chung nên giao mỗi người nuôi dưỡng một người con chung là phù hợp thể hiện trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của ông L về việc ông L trực tiếp nuôi dưỡng một người con chung, bà T trực tiếp nuôi dưỡng một người con chung. Người con chung có tên là Nguyễn Anh T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2019 dưới 36 tháng tuổi nên giao cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, còn ông L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017, hiện do bà T đang nuôi dưỡng do đó, buộc bà Đặng Thị Bích T giao người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017 cho ông L nuôi dưỡng.
Ông L khai nhận thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 10.000.000đ (mười triệu đồng), còn bà T khai nhận thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 8.000.000đ (tám triệu đồng) nên đã có nguồn thu nhập ổn định, đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng người con chung. Đồng thời, mỗi người nuôi dưỡng một người con chung nên không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp. Tuy nhiên, vì lợi ích của các người con chung, khi có căn cứ thì bà T, ông L hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; khi có lý do chính đáng thì bà T, ông L có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Đồng thời, ông L, bà T có quyền, nghĩa vụ thăm nom người con chung không trực tiếp nuôi dưỡng;
[4] Về nợ chung và tài sản chung: Trong quá trình chung sống bà T và ông L không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí: Bà Đặng Thị Bích T không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông Nguyễn Hoàng L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), ông L đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được đối trừ án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình;
- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng L về việc xin ly hôn với bà Đặng Thị Bích T.
Ông Nguyễn Hoàng L được ly hôn với bà Đặng Thị Bích T.
Về con chung:
Ông Nguyễn Hoàng L được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017, hiện do bà T đang nuôi dưỡng.
Buộc bà Đặng Thị Bích T giao người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017 cho ông L nuôi dưỡng.
Bà Đặng Thị Bích T được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người con chung có tên là Nguyễn Anh T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2019, hiện do bà T đang nuôi dưỡng.
Ông Nguyễn Hoàng L có quyền, nghĩa vụ thăm nom người con chung có tên là Nguyễn Anh T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2019, bà T cùng các thành viên của gia đình không ai được cản trở. Ông L thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom con phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Bà Đặng Thị Bích T có quyền, nghĩa vụ thăm nom người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Trâm A, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2017, ông L cùng các thành viên của gia đình không ai được cản trở. Bà T thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom con phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp ông Nguyễn Hoàng L lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Đặng Thị Bích T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Nguyễn Hoàng L.
Trong trường hợp bà Đặng Thị Bích T lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Ông Nguyễn Hoàng L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà Đặng Thị Bích T.
Vì lợi ích của các người con chung, khi có căn cứ thì ông L, bà T hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; khi có lý do chính đáng thì ông L, bà T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định.
Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), ông L đã nộp tiền tạm ứng án phí với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000634 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tỉnh Long An được đối trừ án phí sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 83/2020/HNGĐ-ST ngày 14/12/2020 về tranh chấp ly hôn, con chung giữa ông L và bà T
Số hiệu: | 83/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về