Bản án 83/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 83/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2019/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

ĐỖ MINH C – Tên gọi khác: Tý bàng, sinh năm 1999 tại Bình Thuận;

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường L, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Minh T, sinh năm 1978 và bà: Nguyễn Thị Thu L, sinh năm 1981; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 21/6/2019 đến ngày 27/6/2019 được trả tự do; hiện tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân thị xã L.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Nguyễn Phương T, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Khu phố 7, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

2/ Huỳnh Văn H, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Khu phố 2, phường L, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11giờ ngày 21/6/2019 tại nhà của ông Đỗ Minh T thuộc khu phố 3, phường L, thị xã L, lực lượng trinh sát Đồn biên phòng L bắt quả tang Đỗ Minh C, Nguyễn Phương T, Huỳnh Văn H đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ trên chiếc nệm trong phòng ngủ của Đỗ Minh C nơi 03 đối tượng đang sử dụng ma túy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm: 01 ống thủy tinh cong, 01 ống hút nước giải khát và 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ tròn) và 01 hộp nhựa hình tròn màu xanh, đường kính 07 cm, bên trong có 01 bịch nylon màu trắng, kích thước 4x4cm, chứa các hạt tinh thể màu trắng dạng rắn, C khai nhận đây là ma túy của C cất giấu nhằm mục đích sử dụng.

Theo Kết luận giám định số 555/KLGĐ-PC09 ngày 24/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Bình Thuận kết luận: Tinh thể màu trắng trong gói nylon là Methamphetamine, khối lượng 0,8028 gam.

Về nguồn gốc ma túy, Đỗ Minh C khai nhận như sau: Khoảng 22 giờ ngày 20/6/2019, C điều khiển xe mô tô lên khu vực đường Nguyễn Văn Trỗi thuộc phường T, thị xã L và mua của một người thanh niên không rõ nhân thân lai lịch 1.000.000 đồng ma túy đá. Đến sáng ngày 21/6/2019, C lấy một ít ma túy để sẵn vào ống thủy tinh cong, số còn lại giấu vào hộp nhựa hình tròn màu xanh và để trên nệm trong phòng ngủ. Sau đó, C đi ăn sáng cùng với Nguyễn Phương T đến khoảng 10 giờ 30 phút thì về nhà C để cùng sử dụng ma túy. Sau đó có H cùng đến sử dụng số ma túy C để trong ống thủy tinh cong trước đó. Khi cả ba đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Đồn Biên phòng bắt quả tang như đã nêu trên.

Về vật chứng vụ án gồm: 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,4421 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 555 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, 01 hộp nhựa hình tròn màu xanh và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm: 01 ống thủy tinh cong, 01 ống hút nước giải khát và 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ tròn), đã được chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L quản lý.

Tại Cáo trạng số 81/CT –VKS ngày 27/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L đã truy tố bị cáo Đỗ Minh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Minh C phạm tộiTàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Đỗ Minh C mức án từ 18 đến 24 tháng Tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon đã được cắt lấy mẫu và 0,4421 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 555 của Phòng Kỹ thuật công an tỉnh Bình Thuận, 01 bộ sử dụng ma túy (gồm 01 ống thủy tinh cong, 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ tròn, 01 ống hút nước giải khát); 01 hộp nhựa màu xanh Bị cáo Đỗ Minh C thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại tòa, bị cáo Đỗ Minh C thừa nhận hành vi phạm tội của bị đúng như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thị xã L đã truy tố, cụ thể: Khoảng 10 giờ 00’ ngày 21/6/2019, tại nhà ông Đỗ Minh T thuộc khu phố 3, phường L, thị xã L, bị cáo Đỗ Minh C có hành vi tàng trữ 0,8028gam Methamphetamine nhằm sử dụng cho bản thân.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Minh C đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Đỗ Minh C về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Đỗ Minh C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi đời còn trẻ, tuy nhiên sớm sa vào ma túy, bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy cũng như việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy. Thế nhưng, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, mua ma túy từ các đối tượng khác về cất giấu để sử dụng cho bản thân và cho các con nghiện khác cùng sử dụng. Xét thấy, các hành vi liên quan đến vấn nạn ma túy luôn gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, là một trong những nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác làm ảnh hưởng không tốt đến an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc phù hợp với hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thời điểm phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung [5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng [6] Về xử lý vật chứng: 01 gói nylon đã được cắt lấy mẫu và 0,4421 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 555 của Phòng Kỹ thuật công an tỉnh Bình Thuận, 01 bộ sử dụng ma túy (gồm 01 ống thủy tinh cong, 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ tròn, 01 ống hút nước giải khát); 01 hộp nhựa màu xanh, là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy;

[7] Về các vấn đề khác: Đối với Nguyễn Phương T và Huỳnh Văn H có hành vi sử dụng ma túy nhưng không biết việc bi cáo tàng trữ ma túy, không cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi không đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Minh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt Đỗ Minh C 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ 21.6.2019 đến 27.6.2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon đã được cắt lấy mẫu và 0,4421 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 555 của Phòng Kỹ thuật công an tỉnh Bình Thuận, 01 bộ sử dụng ma túy (gồm 01 ống thủy tinh cong, 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ tròn, 01 ống hút nước giải khát); 01 hộp nhựa màu xanh.

Hiện vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/9/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thị xã L và Chi cục thi hành án thị xã L.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Đỗ Minh C phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 83/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;