Bản án 83/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮKLẮK

BẢN ÁN 83/2019/HSST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 20/11/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh ĐắkLắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2019/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Họ và tên Lê Thị Phương D; tên gọi khác: không.

Sinh ngày: 28/9/1990 tại: tỉnh Đăk Lăk;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn A, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: phật giáo; Nghề nghiệp: quản lý nhà nghỉ; Trình độ học vấn: 12/12, Tiền án - Tiền sự: Không; Con ông: Lê Hùng V, sinh năm 1962 và con bà Hồ Thị P, sinh năm 1967. Hiện ông bà đang sống tại số 127 đường Quang Trung, TT Quảng Phú, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk; Bị cáo có chồng Nguyễn Minh T, sinh năm 1990, bị cáo có 01 con sinh năm 2015. Hiện chồng và con đang sinh sống tại A, xã EK, huyện C M, tỉnh Đắk Lắk;

Nhân thân: Ngày 19/8/2019 có hành vi “chứa mại dâm”, bị cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Ngày 16/10/2019 thay thế biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại. Hiện bị cáo đang tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hồ Thị P, sinh năm 1967 (Có mặt) Trú tại: số J đường QT, TT QP, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk

2. Chị H’ W Ayŭn (tên gọi khác: H V), sinh năm: 1997 (Vắng mặt) Trú tại: Buôn F phường ET, TP. BMT, tỉnh Đăk Lăk

3. Chị H’ N, sinh năm: 1988 (Vắng mặt) Trú tại: Buôn F, phường ET, TP. BMT, tỉnh Đăk Lăk

4. Kpă Y H, sinh năm: 1969 (Vắng mặt) Trú tại: Buôn G, xã CM, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk

5. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1957 (Vắng mặt) Trú tại: thôn W, xã EK, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhà nghỉ Kim Dung có địa chỉ số 31, đường Hùng Vương, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, do bà Hồ Thị P làm chủ và được Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Cư M’gar cấp Giấy đang ký hộ kinh doanh số 40G8006685 ngày 06/6/2012. Quá trình kinh doanh bà Phục thuê con gái ruột là Lê Thị Phương D làm quản lý nhà nghỉ vào ban ngày với mức lương 3.000.000 đồng/tháng, còn ban đêm thì bà Phục quản lý. Trong tháng 7/2019 (không nhớ rõ ngày) thì H’ N Ayŭn đến nhà nghỉ Kim Dung cùng một người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) và nghỉ lại. Sau đó, H’ N Ayŭn gặp Dung để tính tiền phòng là 70.000 đồng thì H’ N Ayŭn tự giới thiệu mình tên là H’ V và nói với D là nếu có khách đến mua dâm thì gọi cho H’ V theo số điện thoại 0886523294 để H’ V bán dâm, D đồng ý và lưu lại số điện thoại với tên là H’ V.

Khoảng 17 giờ 20’ ngày 10/8/2019, bà P và Dđang ở nhà nghỉ Kim Dung thì có ông Kpă Y H và ông Nguyễn Văn Q đến. Lúc này, bà P đi lên làm vệ sinh phòng 18 tầng 2, còn D ở quầy lễ tân tầng trệt để nói chuyện giao dịch với ông Y H và ông Q. Quá trình nói chuyện ông Y H, ông Q đặt vấn đề mua dâm tại nhà nghỉ Kim Dung thì D đồng ý và thống nhất số tiền mua dâm cho một người là 400.000 đồng/lần (bao gồm cả tiền phòng nhà nghỉ là 70.000 đồng), thì ông Y H và ông Q đồng ý. D nói ông Y H và ông Q ngồi chờ tại bàn uống nước ở tầng trệt. Sau đó, D lấy điện thoại sử dụng sim số 0941421198 gọi đến số điện thoại 0886523294 cho H’ N Ayŭn, lúc này đang ngồi chơi với H’ W Ayŭn tại phòng trọ số nhà 287, đường Hùng Vương, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar và nói có 02 người khách cần mua dâm, em đến nhà nghỉ Kim Dung đi. Trong lúc nói chuyện với Dung thì H’ N Ayŭn mở loa to nên H’ W nghe được việc D cần 02 người đi bán dâm cho khách tại nhà nghỉ Kim Dung. Do H’ W đang cần tiền tiêu xài cá nhân nên sau khi H’ N Ayŭn nói chuyện điện thoại với D xong, thì H’ W đã chủ động nói với H’ N Ayŭn cho đi cùng để bán dâm. Sau đó, H’ N điều khiển xe ô tô 47B1- 279.38 chở theo H’ W đến nhà nghỉ Kim Dung. Khi H’ N Ayŭn và H’ W điều khiển xe mô tô vừa đến nhà nghỉ Kim Dung, thì D nói trả tiền mua dâm nên ông Y H và ông Q mỗi người đưa cho D một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và D đưa lại tiền thừa cho mỗi người 100.000 đồng. H’ N Ayŭn và H’ W đến quầy lễ tân gặp D thì D nói đã lấy tiền của ông Y H và ông Q là 800.000 đồng, tiền phòng nghỉ là 70.000 đồng, khi nào xong việc (ý nói bán dâm xong) thì D sẽ đưa lại tiền cho, đồng thời đưa cho H’ N Ayŭn và H’ W mỗi người 01 bao cao su nhãn hiệu “DELUXE”. Sau đó, Dung dẫn 04 người lên tầng 01 và nói H’ N Ayŭn cùng ông Hãng vào phòng số 5, ông Y H và H’ W vào phòng số 14 để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi ông Q và H’ N Ayŭn đang quan hệ tình dục tại phòng số 5, ông Y H và H’ W đang quan hệ tình dục tại phòng số 14 thì bị Công an huyện Cư M’gar phát hiện lập biên bản và tạm giữ các đồ vật có liên quan.

Về vật chứng của vụ án:

- Cơ quan điều tra đã tạm giữ 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng là tiền mà ông Y H và ông Q đã đưa cho Lê Thị Phương D để mua dâm; Tại phòng số 5 thu giữ 01 vỏ bao cao su đã bị xé một đầu, trên vỏ bao có in chữ “DEL UXE”, 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su còn nguyên vẹn; Tại phòng số 14 thu giữ 01 vỏ bao cao su đã bị xé một đầu, trên vỏ bao có in chữ “DELUXE”, 01 bao cao su đã qua sử dụng; Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu đỏ đen, số IMEI1: 865892042649016, số IMEI2: 865892042649008 và 01 sim số 01 sim số 0886523294 của H’ N Ayŭn; Tạm giữ 01 điện thoại di động Sam Sung Galaxy J2 Pro, màu xanh đen, số IMEI1: 354802091309048, số IMEI2: 354802091309046 và 01 số 0943854344, 01 điện thoại di động NOKIA 501, vỏ máy màu đen số IMEI1: 358139051554867, số IMEI2: 358139051554875 và 01 sim số 0941421198 của Lê Thị Phương D; Tạm giữ 01 xe mô tô biển số 47B1-279.38, số loại VISION, nhãn hiệu HONDA, màu sơn Trắng - Bạc - Đen, số máy JF33E0079745, số khung RLHJF330XCY079697; Tạm giữ 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 40G8006685, 01 Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự số 173/GCN do bà Hồ Thị P đứng tên.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, bị cáo Lê Thị Phương D đã khai nhận hành vi Chứa mại dâm đã nêu ở trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án.

Tại Bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 31/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Lê Thị Phương D về tội: “chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Thị Phương D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Thị Phương D như nội dung cáo trạng và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Phương D phạm tội “Chứa mại dâm”. Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Thị Phương D mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng Tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm đến 05 năm.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 vỏ bao cao su đã bị xé một đầu có in chữ “DELUXE”, 02 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su còn nguyên vẹn thu giữ tại phòng số 5 và phòng số 14, cần tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu đỏ đen, số IMEI1:

865892042649016, số IMEI2: 865892042649008 và 01 sim số 01 sim số 0886523294 của H’ N Ayŭn đã sử dụng để liên lạc với Lê Thị Phương D, xét thấy trả lại điện thoại cho H’ N Ayŭn là phù hợp.

- Đối với di động Sam Sung Galaxy J2 Pro, màu xanh đen, số IMEI1:

354802091309048, số IMEI2: 354802091309046 và 01 số 0943854344 của Lê Thị Phương D là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với di động NOKIA 501, vỏ máy màu đen số IMEI1:

358139051554867, số IMEI2: 358139051554875 và 01 sim số 0941421198 của Lê Thị Phương D không phải là vật chứng của vụ án. Tuy nhiên, cần tiếp tục tạm giữ để phục vụ truy tố, xét xử và đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng là của Kpă Y H và Nguyễn Văn Q sử dụng vào việc mua dâm. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định trong số tiền trên chỉ có 800.000 đồng là tiền mua dâm mà D nhận của Kpă Y H và Nguyễn Văn Q là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu và sung công quỹ Nhà nước, còn lại 200.000 đồng là tiền của Lê Thị Phương D của vụ án. Tuy nhiên, cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với xe mô tô biển số 47B1-279.38, H’ N Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp, vào ngày 10/8/2019 H’ N Ayŭn đã sử dụng xe mô tô trên đi đến số nhà 287, đường Hùng Vương, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar để chơi với H’ W. Trong lúc đang ngồi chơi tại đây, thì D điện thoại cho H’ N Ayŭn, để H’ N Ayŭn chở H’ W đến nhà nghỉ Kim Dung bán dâm, sau đó bị Công an huyện Cư M’gar ra Quyết định phạt vi phạm hành chính, H’ N Ayŭn đã chấp hành xong.

Ngày 16/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng số 27 trả cho H’ N Ayŭn xe mô tô biển số 47B1-279.38.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Phương D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 17 giờ 20’ ngày 10/8/2019, Lê Thị Phương D (được thuê làm quản lý nhà nghỉ Kim Dung). Quá trình nói chuyện ông Y H, ông Q đặt vấn đề mua dâm tại nhà nghỉ Kim Dung, D đã đồng ý và lấy điện thoại di động sử dụng sim số 0941421198 gọi đến số điện thoại 0886523294 cho H’ N Ayŭn và H’ W. Sau đó, H’ N Ayŭn điều khiển xe mô tô 47B1-279.38 chở theo H’ W đến nhà nghỉ Kim Dung để bán dâm, H’ N Ayŭn và H’ W đến nhà nghỉ thì D đưa cho H’ N Ayŭn và H’ W mỗi người 01 bao cao su nhãn hiệu “DELUXE”. Sau đó, D dẫn 04 người lên tầng 01 và nói H’ N Ayŭn cùng ông Hãng vào phòng số 5, ông Y H và H’ W vào phòng số 14 để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi ông Hãng và H’ N Ayŭn đang quan hệ tình dục tại phòng số 5, ông Y H và H’ W đang quan hệ tình dục tại phòng số 14 thì bị Công an huyện Cư M’gar phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ các đồ vật có liên quan.

Hành vi trên đây của Lê Thị Phương D đã phạm tội: Chứa mại dâm. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

"1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy, cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 31/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Lê Thị Phương D về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong cộng đồng dân cư và là nguyên nhân lây truyền các căn bệnh nguy hiểm của xã hội nên cần phải xử lý nghiêm khắc để không những cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho xã hội mà còn là biện pháp răn đe và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiện nay bị cáo đang là lao động chính trong gia đình (anh Nguyễn Minh T chồng bị cáo bị tai nạn, hiện vẫn đang điều trị; mẹ già bà Trần Thị S, sinh năm 1937 và con nhỏ sinh năm 2015); gia đình bố mẹ chồng bị cáo có công với cách mạng (ông Nguyễn N tặng huân chương kháng chiến hạng nhất, bà Trần Thị S tặng huân chương kháng chiến hạng nhì và nhiều kỷ niệm chương). Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

Với tính chất mức độ hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội cũng đảm bảo mục đích răn đe phòng ngừa chung về tội phạm.

[4] Hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi, thu lợi bất chính nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính nên Hội đồng xét xử xét thấy cần miễn toàn bộ hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với H’ N Ayŭn và H’ W Ayŭn Công an huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 59, 60 ngày 23/8/2019 về hành vi bán dâm theo khoản 1 Điều 23 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức tiền phạt hành chính mỗi người 200.000 đồng nên không đề cập xử lý.

Đối với Nguyễn Văn Q và Kpă Y H Công an huyện Ea Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 68, 69 ngày 30/8/2019 về hành vi mua dâm theo khoản 1 Điều 22 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức tiền phạt hành chính mỗi người 750.000 đồng nên không đề cập xử lý.

Đối với bà Hồ Thị P là chủ nhà nghỉ Kim Dung được Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Cư M’gar cấp giấy đăng ký hộ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh: Nhà nghỉ, quá trình hoạt động kinh doanh vào ngày 10/8/2019 Lê Thị Phương D là người được bà P thuê làm quản lý, đã thực hiện hành vi chứa mại dâm tại nhà nghỉ Kim Dung ở phòng số 5 và phòng số 14 tầng 1. Lúc này, bà Phục đi lên làm vệ sinh phòng 18 tầng 2 nên bà Phục không biết và cũng không bàn bạc, thỏa thuận gì trước với D về việc chứa mại dâm nêu trên. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát Điều tra không đề cập xử lý đối với 02 căn phòng nêu trên. Tuy nhiên, bà P là người đứng đầu cơ sở kinh doanh nhà nghỉ Kim Dung có trách nhiệm quản lý nhà nghỉ, do thiếu tinh thần trách nhiệm mà P để xảy ra hoạt động mua, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý. Đã vi phạm vào khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Ngày 17/10/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 56, đối với bà Hồ Thị P với số tiền 15.000.000 đồng, hình thức phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh trong thời hạn 06 tháng, quy định tại khoản 3 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ nên không đề cập xử lý.

[6] Xử lý vật chứng:

- Đối với 02 vỏ bao cao su in chữ “DELUXE”, 02 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su còn nguyên vẹn là vật chứng vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu đỏ đen, số IMEI1:

865892042649016, số IMEI2: 865892042649008 và 01 sim số 01 sim số 0886523294 của H’ N Ayŭn đã sử dụng để liên lạc với Lê Thị Phương D không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho H’ N Ayŭn.

- Đối với điện thoại di động Sam Sung Galaxy J2 Pro, màu xanh đen, số IMEI1: 354802091309048, số IMEI2: 354802091309046 và 01 số 0943854344 của Lê Thị Phương D là vật chứng của vụ án để phạm nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với điện thoại di động NOKIA 501, vỏ máy màu đen số IMEI1:

358139051554867, số IMEI2: 358139051554875 và 01 sim số 0941421198 của Lê Thị Phương D không phải là vật chứng của vụ án nên trả lại cho của Lê Thị Phương D.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng là của Kpă Y H và Nguyễn Văn Q sử dụng vào việc mua dâm. Tuy nhiên, số tiền trên chỉ có 800.000 đồng là tiền mua dâm mà D nhận của Kpă Y H và Nguyễn Văn Q là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu và sung công quỹ Nhà nước. Số tiền còn lại 200.000 đồng là tiền của Lê Thị Phương D nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với xe mô tô biển số 47B1-279.38, H’ Nĩ Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp, vào ngày 10/8/2019 H’ N Ayŭn đã sử dụng xe mô tô trên đi đến số nhà 287, đường Hùng Vương, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar để chơi với H’ W. Trong lúc đang ngồi chơi tại đây, thì D điện thoại cho H’ N Ayŭn, để H’ N Ayŭn chở H’ W đến nhà nghỉ Kim Dung bán dâm, sau đó bị Công an huyện Cư M’gar ra Quyết định phạt vi phạm hành chính, H’ N Ayŭn đã chấp hành xong.

Ngày 16/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng số 27 trả cho H’ N Ayŭn xe mô tô biển số 47B1-279.38 là phù hợp nên không đề cập xử lý.

Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 40G8006685, 01 giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự số 173/GCN do bà Hồ Thị P đứng tên, xét thấy cần trả lại cho bà P là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố:

Bị cáo Lê Thị Phương Dg phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Phương D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm.

Giao bị cáo Lê Thị Phương D cho Ủy ban nhân dân xã Ea Kpam, huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú được áp dụng theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 vỏ bao cao su in chữ “DELUXE”; 02 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su còn nguyên vẹn.

- Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu đỏ đen, số IMEI1: 865892042649016, số IMEI2: 865892042649008 và 01 sim số 0886523294 cho chị H’ N Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu sung công qũy nhà nước 01 điện thoại di động Sam Sung Galaxy J2 Pro, màu xanh đen, số IMEI1: 354802091309048, số IMEI2: 354802091309046 và 01 số 0943854344 của Lê Thị Phương D và số tiền 800.000 đồng - Trả lại 01 điện thoại di động NOKIA 501, vỏ máy màu đen số IMEI1:

358139051554867, số IMEI2: 358139051554875 và 01 sim số 0941421198 cho Lê Thị Phương D là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000 đồng là tiền của Lê Thị Phương D để đảm bảo công tác thi hành án.

- Chấp nhận Cơ quan Công an huyện Cư Mgar trả 01 xe mô tô biển số 47B1- 279.38, H’ N Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp - Trả lại cho bà Hồ Thị P 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 40G8006685, 01 giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự số 173/GCN do bà Hồ Thị P đứng tên.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/11/2019 giữa Cơ quan Điều tra – Công an huyện và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Mgar)

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thị Phương D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

468
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 83/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:83/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;