Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 83/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2019 về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 169/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn V T, sinh năm 1976 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp TĐ, xã LVL, tp CM, tỉnh CM.

Bị đơn: Bà Liên K P, sinh năm 1976 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp TĐ, xã LVL, t p CM, tỉnh CM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện ngày 14/2/2019 và biên bản hòa giải ngày 07/3/2019, nguyên đơn ông Nguyễn V T trình bày:

- Về hôn nhân: Ông và bà Liên K P kết hôn với nhau vào năm 1997, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu nên giấy đăng ký kết hôn đã bị thất lạc và ông cũng không nhớ là đăng ký kết hôn ở đâu. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, vợ chồng đã ly thân từ tháng 01/2019 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà P.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn V C, sinh ngày 17/12/1998 và Nguyễn N G, sinh ngày 01/11/2004. Các con chung vẫn đang sống cùng với bà P từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Khi ly hôn, ông yêu cầu được nuôi con tên Nguyễn N G, không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con. Nguyễn V C hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông T xác định không có.

Ti biên bản hòa giải ngày 07/3/2019, bị đơn bà Liên K P trình bày:

- Về hôn nhân: Bà thống nhất với lời trình bày của ông T về thời điểm kết hôn, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do thời gian đã quá lâu nên hiện nay giấy đăng ký kết hôn đã bị thất lạc và bà cũng không nhớ là đăng ký kết hôn ở đâu. Bà xác định vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng, do ông T buồn chuyện gia đình nên đã ra ngoài sống riêng từ khoảng tháng 01/2019 cho đến nay. Bà xác định vẫn còn tình cảm với chồng và mong muốn được hàn gắn để lo cho gia đình. Do đó, bà không đồng ý ly hôn với ông T, bà yêu cầu được đoàn tụ.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung như ông T trình bày là đúng, con chung hiện đang sống chung với bà kể từ khi vợ chồng ly thân với nhau. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn thì bà yêu cầu được nuôi con tên Nguyễn N G, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Đối với Nguyễn V C hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà P xác định không có.

Tại phiên tòa, ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là xin được ly hôn với bà P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa ông Nguyễn V T và bà Liên K P được xác định là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn bà Liên K P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà P theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Ông Nguyễn V T và bà Liên K P xác định vợ chồng kết hôn với nhau vào năm 1997, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu nên giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đã bị thất lạc và ông bà cũng không nhớ là đã đăng ký kết hôn ở đâu. Thấy rằng, các đương sự đã thống nhất với nhau về thời gian kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà P được xác định là có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp và được bảo vệ.

Tại phiên tòa, ông T xác định nguyên nhân mâu thuẫn là do bà P thường hay cờ bạc, không lo cho gia đình, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cải nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Sự việc mâu thuẫn đã xảy ra nhiều năm và ông đã nhiều lần tạo điều kiện để cho bà P sửa chữa sai lầm để lo cho gia đình và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, bà P vẫn không sửa đổi lỗi lầm dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và hiện nay ông đã bỏ ra ngoài sống riêng từ tháng 01/2019 cho đến nay. Ông T xác định không còn tình cảm yêu thương đối với bà P, thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với bà P và khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông T được ly hôn với bà P.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn V C, sinh ngày 17/12/1998 và Nguyễn N G, sinh ngày 01/11/2004. Các con chung vẫn đang sống cùng với bà P từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Tại phiên tòa, ông T xác định đối với cháu Nguyễn N G yêu cầu giải quyết việc nuôi con theo nguyện vọng của con, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đối với Nguyễn V C hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Liên K P yêu cầu được nuôi con tên Nguyễn N G, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Thấy rằng, đối với con chung tên Nguyễn V C, sinh ngày 17/12/1998 đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét. Đối với cháu Nguyễn N G, sinh ngày 01/11/2004 có nguyện vọng được ở với bà P, kể từ khi ông T và bà P ly thân với nhau cho đến nay thì cháu G vẫn sống chung với bà P. Xét thấy, để cho các con chung được ổn định về cuộc sống và xét nguyện vọng của cháu G nên giao con chung tên Nguyễn N G cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông T, bà P xác định không có nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Ông T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng: Điều 51, 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn V T được ly hôn với bà Liên K P.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn N G, sinh ngày 01/11/2004 cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông T phải chịu 300.000 đồng. Ngày 15/02/2019 ông T đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0002048 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, được chuyển thu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thi hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:83/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;