Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TH XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH Dương

BẢN ÁN 83/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 09 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 451/2019/TLST-HNGĐ ngày 14-5-2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Bích Th, sinh năm 1980; thường trú: Số 26, đường số 7, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Tr, sinh năm 1976; thường trú: Số 26, đường số 7, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/5/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Bích Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Tr tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2003, vợ chồng không tổ chức lễ c ưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D, tỉnh B,  được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 47/07, quyển số 05 ngày 18-6-2007. Chị Th xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, anh Tr không tôn trọng chị, chửi mắng, xúc phạm chị ngay giữa đám đông bất kể ở trong nhà hay ở ngoài đường. Đối với các con thì anh Tr là người cha biết quan tâm, chăm sóc nhưng đối với vợ thì anh là một người chồng vô tâm, không quan tâm đến tâm tư, tình cảm hay sức khỏe của vợ làm cho chị bị áp lực trong đời sống chăn gối của vợ chồng. Chị và anh yêu nhau, tự nguyện chung sống tuy không  được sự đồng ý của gia đình nhưng từ ngày thành vợ thành chồng đến nay anh Tr không hỏi thăm sức khỏe của bố mẹ chị. Vì các con còn quá nhỏ nên chị đã nhẫn nhịn để các con lớn lên trong gia đình có đủ cả cha và mẹ nhưng đến nay đã vượt mức chịu đựng của chị. Cuộc sống hôn nhân ngày càng căng thẳng, vợ chồng không thể tiếp tục sống chung với nhau nên chị yêu cầu  được ly hôn với anh Tr.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con tên Lê Minh H, sinh ngày 07/01/2005 và Lê M, sinh ngày 08/7/2008. Hiện nay các con đang ở với hai vợ chồng tại số 26 đường 7, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B. Trong đơn khởi kiện chị yêu cầu  được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con tên Lê Minh H, sinh ngày 07/01/2005 và anh Tr là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con tên Lê M, sinh ngày 08/7/2008. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Trước khi Tòa án xét xử chị Th có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về con chung, theo đó chị yêu cầu  được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Tr đã  được Tòa án thông báo tham gia tố tụng, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn  được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án  được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Chị Trần Thị Bích Th khởi kiện anh Lê Tr yêu cầu  được ly hôn nên đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lê Tr có nơi c ư trú tại khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã  được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 17/7/2019 và ngày 09/8/2019 nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Tr có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D, tỉnh B, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 47/07, quyển số 05 ngày 18-6-2007 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Th xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, anh Tr không tôn trọng, chửi xúc phạm chị ngay giữa đám đông, anh không quan tâm đến tâm tư, tình cảm và sức khỏe của chị, đời sống chăn gối vợ chồng không hòa hợp làm cho chị bị áp lực và tổn Thương. Chị đã nhẫn nhịn để các con lớn lên trong gia đình có cha và có mẹ nhưng đến nay nhận thấy cuộc sống hôn nhân ngày càng căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn. Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải Thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị Th xác định quan hệ hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Anh Tr đã  được Tòa án triệu tập làm việc, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ và tham gia hòa giải nhưng đều vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh, trước khi Tòa án thụ lý vụ án chị Th và anh Tr không ai có đơn đề nghị hòa giải tại cơ sở, điều này phù hợp với lời khai của nguyên đơn. Cháu H và cháu M đều có lời khai thể hiện cuộc sống hôn nhân của ba mẹ có nhiều mâu thuẫn thường xuyên xảy ra cãi vã. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị Th và anh Tr đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt  được. Do đó, chị Th yêu cầu  được ly hôn với anh Tr là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con tên Lê Minh H, sinh ngày 07/01/2005 và Lê M, sinh ngày 08/7/2008. Hiện nay các con đang ở với hai vợ chồng. Trước khi Tòa án án xét xử chị Th có đơn thay đổi yêu cầu về con chung, theo đó chị Th yêu cầu  được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu H và cháu M từ trước đến nay đều sống cùng với ba mẹ, tại bản tự khai cháu H có nguyện vọng  được chung sống với mẹ, cháu Minh có nguyện vọng  được sống với ba. Tuy nhiên, anh Tr không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến về vấn đề con chung khi vợ chồng ly hôn. Chị Th buôn bán tự do, có thu nhập ổn định 14.000.000 đồng/tháng nên đủ khả năng kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng các con.

Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá yêu cầu khởi kiện nên  được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử giao hai con cho chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị Th không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Bích Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 227, 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Bích Th đối với anh Lê Tr về việc ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Bích Th được ly hôn với anh Lê Tr.

- Về con chung: Giao hai con chung tên Lê Minh H, sinh ngày 07/01/2005 và Lê M, sinh ngày 08/7/2008 cho chị Trần Thị Bích Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Sau ly hôn, chị Th và anh Tr đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Tr lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Th nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của các con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Bích Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn,  được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028543, ngày 14-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt  được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận  được bản án hoặc bản án  được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định  được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người  được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án  được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:83/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;