Bản án 82/2021/HSST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 82/2021/HSST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dận quận Hà Đông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 53/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXX-TA ngày 02 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Đức T (Tên khác: Không), sinh năm 1974; HKTT: số 492 phố B, phường T, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Bố đẻ: Hoàng Văn D; Mẹ đẻ: Bùi Thị T1 (Đều đã chết); Vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1975; Có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 21 lập ngày 24/12/2020 tại Công an quận Hà Đông.

Nhân thân: Bản án số 503/HSST ngày 07/11/1995 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 18 tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”.

Bị cáo bị bắt từ ngày 19/12/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: Đào Thu H (Tên khác: Không), sinh năm 1987; HKTT: số 299, tổ 16, phường P, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Số 8, Ngách 36, Ngõ 53, phố N, phường P, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt E:\TDV\HS\2021\04.22 Hoàng Đức Thịnh, HIền K1 Đ 251\Bản án chính.docx Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Bố đẻ: Đào Quốc B (Đã chết); Mẹ đẻ: Đinh Thu Tr, sinh năm 1966; Chồng (đã ly hôn): Nguyễn Đức G, sinh năm 1984; Có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 20 lập ngày 24/12/2020 tại Công an quận Hà Đông.

Bị cáo ra đầu thú từ ngày 19/12/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Đức T và Đào Thu H có quan hệ quen biết nhau và đều là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 18/12/2020, T đến chơi tại nhà trọ của H ở Số 8, Ngách 36, Ngõ 53, phố N, phường P, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Tại đây, T đưa cho H 500.000 đồng và nói H đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. H cầm tiền đi bộ ra khu vực đầu đường Hàm Tử Quan, phường Phúc Tân gặp và mua được của một đối tượng nữ giới không quen biết 01 túi ni-lông bên trong chứa ma túy đá với giá 500.000 đồng. Mua xong, H cầm túi ma túy mang về phòng trọ và chia thành 03 túi nhỏ, H và T cùng sử dụng hết 02 túi, còn lại 01 túi. Sau đó, H nhận được cuộc gọi đến của một đối tượng đàn ông không quen biết hỏi mua 500.000 đồng ma túy “đá” và yêu cầu mang đến bến xe Yên Nghĩa, quận Hà Đông để giao dịch mua bán. Nghe điện xong, H bảo T đem ma túy đi giao cho khách, rồi đưa cho T túi ma túy còn lại, cùng 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia để khi nào người hỏi mua ma túy gọi thì liên lạc giao ma túy, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave biển kiểm soát 29B1-516.28 và 100.000 đồng để đổ xăng. Đến 23 giờ 50 phút cùng ngày, khi T đi đến vị trí biển quảng cáo “Bất động sản Nam Nguyễn”, gần khu vực Bến xe Yên Nghĩa, thì dừng xe lấy túi ma túy ra dán vào chân biển quảng cáo, rồi ngồi chờ người hỏi mua ma túy liên lạc, thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang hành vi cất giấu ma túy để bán.

Đến ngày 19/12/2020, sau khi biết tin T bị bắt, Đào Thu H đã đến Công an quận Hà Đông đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm:

- Thu giữ khi bắt quả tang Hoàng Đức T: 01 túi ni-lông màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng (Nghi ma túy); 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave 110 màu sơn bạc biển kiểm soát 29B1-516.28, số khung PLHHC08002YS59058, số máy HC08E0359221; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh lắp sim số thuê bao 0848824306; 02 tờ mệnh giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

- Thu giữ của Đào Thu H khi đến đầu thú: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu trắng-vàng, lắp sim số thuê bao 0927711669; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu màu đen-vàng, lắp sim số thuê bao 0333355474.

Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định gói vật chứng nghi ma túy đã thu giữ của Hoàng Đức T nêu trên. Tại Kết luận giám định số 11089/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni-lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,470 gam”.

Cáo trạng số 56/CT-VKS-HĐ ngày 26/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Hoàng Đức T và Đào Thu H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Hoàng Đức T 30 đến 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đào Thu H 30 đến 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về vật chứng, đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Hoàng Đức T, cán bộ công an phường Yên Nghĩa Nguyễn Du H1, và giám định viên Nguyễn Văn H2.

+ Tịch thu, sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bên trong chứa sim số 0848824306 được sử dụng vào việc phạm tội; 02 tờ mệnh giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

+ Đề nghị xử lý theo Điều 228 Bộ luật dân sự đối với 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave 110 màu sơn bạc biển kiểm soát 29B1-516.28, số khung PLHHC08002YS59058, số máy HC08E0359221. Sau 1 năm kể từ ngày đăng thông báo cuối cùng 09/3/2021 mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu, phát mại sung quỹ nhà nước.

+ Trả lại Hoàng Đức T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu màu đen- vàng, lắp sim số thuê bao 0333355474.

+ Trả lại Đào Thu H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu trắng, lắp sim số thuê bao 0927711669.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung: Có đủ cơ sở khẳng định khoảng 20 giờ ngày 18/12/2020, Đào Thu H và Hoàng Đức T đã có hành vi cùng nhau mua ma túy về sử dụng. Tiếp đó, khi có người hỏi mua ma túy, H là người giao dịch và chuẩn bị phương tiện để T đem bán 01 túi ni-lông ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,470 gam để hưởng lợi. Đến đến 23 giờ 50 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực Bến xe Yên Nghĩa, quận Hà Đông và đang chờ liên lạc để bán túi ma túy nêu trên thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của Đào Thu H và Hoàng Đức T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của nhà nước và còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn, tội phạm khác, gây mất trật tự trị an an toàn xã hội.

Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo Đào Thu H nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, là người giao dịch, chuẩn bị phương tiện để T thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy cần áp dụng hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Bị cáo Hoàng Đức T có nhân thân xấu, từng bị kết án, đã được xóa án tích nhưng do nghiện ngập và để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo chủ động đưa tiền cho H mua ma túy để cả hai sử dụng và tích cực thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy theo chỉ dẫn của H. Việc áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung là cần thiết.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra, xét xử các bị cáo có thái độ hợp tác, khai báo thành khẩn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1; bị cáo H đã tự giác ra đầu thú là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo.

[3] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ trong vụ án: Đào Thu H khai mua của đối tượng nữ không quen biết đứng ở lề đường Hàm Tử Quan- phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Ngoài lời khai của H, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

[4] Về vật chứng:

+ Số ma túy trong 01 phong bì dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Hoàng Đức T, cán bộ công an phường Yên Nghĩa Nguyễn Du H1, và giám định viên Nguyễn Văn H2 là vật thuộc loại cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bên trong chứa sim số 0848824306 được sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, phát mại sung quỹ nhà nước.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave 110 màu sơn bạc biển kiểm soát 29B1-516.28, số khung PLHHC08002YS59058, số máy HC08E0359221 là phương tiện Nguyễn Đức T sử dụng để đi bán ma túy và bị thu giữ khi bắt quả tang, H khai xe mua không có giấy tờ mua bán. Kết quả tra cứu, xe có số khung, số máy nguyên thủy, đứng tên chủ sở hữu là anh Nguyễn Đức H3 sinh năm 1977, trú tại Tổ 16, phường L, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Anh H3 trình bày mua xe trên năm 2003, sau đó đã bán cho người không quen biết. Xe không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng, cơ quan điều tra đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu. Sau 1 năm kể từ ngày đăng thông báo cuối cùng 09/3/2021 mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu, phát mại sung quỹ nhà nước.

+ 02 tờ mệnh giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu màu đen-vàng, lắp sim số thuê bao 0333355474; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu trắng, lắp sim số thuê bao 0927711669 là tài sản của Nguyễn Đức T và Đào Thu H nên trả lại. Nhưng tiếp tục lưu giữ 02 tờ mệnh giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T và bị cáo Đào Thu H phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy";

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Hoàng Đức T 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Đào Thu H 28 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

2. Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015;

Điều 228 Bộ luật dân sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Hoàng Đức T, cán bộ công an phường Yên Nghĩa Nguyễn Du H1, và giám định viên Nguyễn Văn H2.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bên trong chứa sim số 0848824306.

+ Sau 1 năm kể từ ngày đăng thông báo cuối cùng 09/3/2021 mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu Hon-da Wave 110 màu sơn bạc biển kiểm soát 29B1-516.28, số khung PLHHC08002YS59058, số máy HC08E0359221.

+ Trà lại Hoàng Đức T:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu màu đen-vàng, lắp sim số thuê bao 0333355474.

+ Trả lại Đào Thu H:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu trắng, lắp sim số thuê bao 0927711669.

- 02 tờ mệnh giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành nhưng tiếp tục lưu giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/4/2021; Giấy nộp tiền vào tài khoản tại Kho bạc nhà nước quận Hà Đông)

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 về án phí, lệ phí toà án: buộc các bị cáo mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 82/2021/HSST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:82/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;