TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 82/2021/HSST NGÀY 05/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2021/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn L; tên gọi khác: Không; sinh ngày 03/7/1969 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Tổ 11, phường N, thành phố Đ, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12 phổ thông; Con ông: Phạm Văn Q (đã chết) và con bà: Phạm Thị Y (đã chết); Mẹ kế: Bùi Thị H; Vợ: Bùi Thị D (đã ly hôn); bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/12/2020 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị N - sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ dân phố 11, phường N, thành phố Đ, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 15 phút ngày 24/12/2020, tổ công tác Công an phường N, thành phố Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ tại tổ dân phố 11, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ phát hiện Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27F6 - 1646 dừng lại trước cổng nhà số 09, tổ dân phố 11, phường N có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì L tự khai nhận vừa thả một gói nhỏ được gói ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, chứa 02 viên nén màu hồng xuống sân cách chân trái L khoảng 50cm, L khai đó là hồng phiến L mua của một người thanh niên không quen biết tại khu vực bản X, xã Thanh An, huyện Điện Biên với giá 60.000 đồng, mục đích để sử dụng. Khi vừa về đến nhà thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 67/GĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu hai viên nén thu giữ của Nguyễn Văn L gửi đi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,18 gam. Vật chứng còn lại sau khi giám định là 0,15 gam.
Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKSTPĐBP ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 15 đến 18 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Methamphemine; 01 mảnh nilon màu trắng Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi của bị cáo bị truy tố:
Hồi 08 giờ 15 phút ngày 24/12/2020, tại khu vực tổ dân phố 11, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn L đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,18 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 24/12/2020, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 24/12/2020. Tại bản kết luận giám định số 67/GĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu 2 viên nén thu giữ của Nguyễn Văn L gửi đi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,18 gam. Vật chứng còn lại sau khi giám định là 0,15 gam.
Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:
"Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...c) Methamphetamine ... có khối lượng từ 01 gam đến dưới 05 gam ...".
[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qua phần xột hỏi và tranh luận tại phiên toà thể hiện nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội là do thiếu ý thức rèn luyện bản thân, tu dưỡng phẩm chất đạo đức và thiếu ý thức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng để phục vụ nhu cầu của bản thân bị cáo đã lao vào con đường phạm tội: Ngày 01/3/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án nên đương nhiên được xóa án tích. Ngày 24/12/2020 bị cáo đã có hành vi cất giấu trong người 0,18 gam Methamphemine mục đích để bản thân sử dụng.
Ngày 01/01/2021 bị cáo bị Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng đối với bị cáo là có cơ sở để chấp nhận đối với tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Vật chứng và các vấn đề khác:
Khối lượng 0,15 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 01 mảnh nilon màu trắng; cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người thanh niên không quen biết tại bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên. Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27F6 - 1646 Công an đã tạm giữ đã trả lại cho chị Nguyễn Thị N là chủ sở hữu, chị N không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội. Một chứng minh thư nhân dân của Nguyễn Văn L đã trả cho chị N là người bị cáo ủy quyền nhận hộ. Xét thấy Cơ quan điều tra đã xử lý đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy tại phiên tòa hôm nay HĐXX không đặt vấn đề giải quyết.
[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (24/12/2020).
3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Methamphemine; 01 mảnh nilon màu trắng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021 giữa Công an thành phố Điện Biên Phủ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).
4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/5/2021).
Bản án 82/2021/HSST ngày 05/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 82/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về