Bản án 82/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

 BẢN ÁN 82/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án, thụ lý số: 348/2020/TLST-HN, ngày 02/11/2020, về việc "Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 18 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1994 (Có mặt). Địa chỉ: Số 315 khóm T, phường T, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long.

Bị đơn: Anh Lê Quốc T, sinh năm 1993 (Có mặt). Địa chỉ: Số 315 khóm T, phường T, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tiếp theo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim H trình bày:

Chị H và anh T tự tìm hiểu nhau được vài tháng thì đi đến hôn nhân nhưng không tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 23/7/2012 tại UBND xã T, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Anh chị sống hạnh phúc được khoảng ba đến bốn năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ vấn đề kinh tế của gia đình và mâu thuẫn với chị chồng nghi ngờ chị H có quan hệ tình cảm với anh rể nên chị chồng thường xuyên dùng lời lẽ không hay để mắng chửi chị H. Từ những mâu thuẫn trên kéo dài dẫn đến cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Do chị và anh T không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được và cũng không còn tình cảm với nhau, vì vậy chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung là cháu Lê Thị N, sinh ngày 24/7/2012. Khi ly hôn chị H yêu cầu giao cháu N cho anh T nuôi dưỡng, chị H không cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Hiện nay chị H làm công nhân xí nghiệp giày, thu nhập bình quân 7.000.000đ.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, sau khi nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án chị đã thuê nhà trọ sống riêng cho đến nay không trở về nhà lần nào. Về con chung chị H có yêu cầu thay đổi người nuôi con, đề nghị sau khi ly hôn anh T nuôi dưỡng con chung và chị không cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Về phía bị đơn anh Lê Quốc T trình bày: Về quan hệ hôn nhân, anh thống nhất lời khai của chị H. Anh và chị H tự tìm hiểu nhau được vài tháng thì đi đến hôn nhân không có tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn vào ngày 23/7/2012 tại UBND xã T, thành phố VL, tỉnh VL. Trước nay anh chị sống hạnh phúc cũng không phát sinh mâu thuẫn gì lớn. Phía chị H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ vấn đề kinh tế của gia đình và mâu thuẫn với chị chồng là có thật nhưng anh có trao đổi với chị ruột không nên can thiệp vào cuộc sống vợ chồng của anh chị, từ lúc anh trao đổi với chị ruột đến nay chị của anh không có ý kiến gì. Anh T không đồng ý ly hôn vì anh muốn con anh có đầy đủ cha mẹ.

Về con chung: Anh T và chị H có 01 con chung là cháu Lê Thị N, sinh ngày 24/7/2012. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh T yêu cầu nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay anh T làm thuê, ai thuê gì làm đó thu nhập bình quân khoảng 5 đến 6 triệu đồng mỗi tháng. Thu nhập này đủ để nuôi con. Tại Tòa, chị H yêu cầu giao con cho anh nuôi, anh đồng ý nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Tòa, anh T giữ nguyên ý kiến đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được qui định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung: Chị H và anh T tự nguyện tìm hiểu nhau đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị hợp pháp. Sau khi cưới nhau anh chị cũng có thời gian sống hạnh phúc nhưng khi xảy ra mâu thuẫn thì anh chị không hàn gắn được. Tại Tòa, chị H trình bày hiện chị không còn tình cảm với anh T nên không thể tiếp tục chung sống vợ chồng, từ khi nộp đơn xin ly hôn chị đã thuê nhà trọ sống riêng và không trở về nhà thăm anh T, cháu N lần nào, chị cũng không đồng ý đoàn tụ gia đình với anh T do mâu thuẫn vợ chồng đã không thể hàn gắn được. Về phía anh T không đồng ý ly hôn tuy nhiên tại Tòa anh T cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm với chị H, xét thấy tình cảm vợ chồng của anh chị đã không còn hạnh phúc, mặc dù anh T đề nghị đoàn tụ nhưng chị H xác định không còn tình cảm với anh T và cương quyết yêu cầu giải quyết ly hôn, như vậy mục đích hôn nhân của anh chị đã không đạt thành nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại Điều 51 và 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung là cháu Lê Thị N, sinh ngày 24/7/2012. Tại Tòa, chị H yêu cầu giao con cho anh T nuôi dưỡng. Về phía anh T có ý kiến nếu trường hợp ly hôn anh yêu cầu nuôi con, tại Tòa anh cũng đồng ý yêu cầu của chị H giao con cho anh nuôi. Nguyện vọng của cháu N muốn được sinh sống cùng mẹ sau khi cha mẹ ly hôn, tuy nhiên chị H và anh T cùng thỏa thuận giao con cho anh T nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử nhận thấy, chị H khai hiện chị H làm công nhân, thời gian làm việc 10 tiếng mỗi ngày và thời giờ làm việc mỗi ngày thường kết thúc từ sau 20 giờ 30 phút đến 21 giờ nên việc dành thời gian quan tâm, chăm sóc cháu N là một cháu gái đang phát triển sẽ ít được đảm bảo tốt hơn. Tại Tòa, chị H thừa nhận từ lúc chị dọn ra ở riêng đến nay chưa lần nào về thăm cháu N, còn cháu N vẫn tiếp tục được anh T đưa đón đi học và chăm sóc đến nay, do đó Hội đồng xét xử giao cháu N cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng theo sự thỏa thuận đồng ý của hai bên anh chị nhằm đảm bảo ổn định nơi sinh sống và học tập của cháu ở hiện tại. Khi có điều kiện đảm bảo, chị H có quyền xin thay đổi nuôi con nếu xét thấy cần thiết và phải thực hiện thủ tục xin thay đổi theo quy định pháp luật. Ghi nhận tự nguyện anh T không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

[4]. Về tài sản chung: Anh T và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[5]. Về nợ chung: Anh T và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[6]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Nguyễn Thị Kim H phải chịu án phí theo qui định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 55, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim H. Chị Nguyễn Thị Kim H được ly hôn với anh Lê Quốc T.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Thị N, sinh ngày 24/7/2012 là con chung của chị H và anh T cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị H được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp ngày 02/11/2020 theo biên lai thu số N0 0005820 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vĩnh Long. Chị H đã nộp đủ.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 82/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:82/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;