Bản án 81/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Ngọc D, sinh năm 1978 tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Võ Thị H (chết); vợ: Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1976, con: Trần D, sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 17/7/2020 đến nay có mặt tại phiên toà.

2. Trần Thanh S, sinh năm 1985 tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Võ Thị H (chết); bị cáo có vợ đã ly hôn, con: Trần Lâm Thiên P, sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 17/7/2020 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Dương Minh S, sinh năm 1966 (vắng mặt có đơn xin vắng mặt)

Trú tại: 245 Hùng Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1989 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: ấp A, xã T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang

Tạm trú: ấp S, xã L, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

- Người làm chứng: Trần Minh H, sinh năm 1981 (vắng mặt có đơn xin vắng mặt)

Trú tại: 318/10 ấp 3, xã T, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 00 phút ngày 16/7/2020 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có đối tượng điều khiển xe ô tô lưu thông trên hương lộ thuộc ấp Ruột Ngựa, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. Cơ quan cảnh sát điều tra kết hợp tổ tuần tra kiểm sát giao thông Công an huyện Vũng Liêm tiến hành dừng phương tiện kiểm tra thì các đối tượng điều khiển xe ô tô và xe mô tô chạy vào nhà ông Đặng Văn Bé E, sinh năm 1964, ấp N, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Tiến hành kiểm tra bên trong xe ô tô biển số 51H-061.58 do Trần Ngọc D điều khiển Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm bắt quả tang:

1/ Trần Ngọc D, sinh năm 1978, ngụ tại ấp T, xã T, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long;

2/ Trần Minh H, sinh năm 1981, ngụ tại 84C/4 ấp 3, xã T, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh

Tang vật thu giữ trong xe ô tô biển số 51H-061.58 gồm: 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm các loại như sau: 2000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero, 1.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet và 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu scott, 01 xe ô tô 04 chỗ biển số 51H-061.58 màu trắng đã qua sử dụng, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện.

3/ Trần Thanh S, sinh năm 1985, ngụ tại ấp T, xã T, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long điều khiển xe mô tô biển số 64D1-268.60 chạy phía trước dẫn đường.

Ngoài ra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm tạm giữ tài sản liên quan gồm:

1/ Tạm giữ của Trần Ngọc D: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ lái xe, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ trên xe vận chuyển hành khách, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 điện thoại di động Iphone.

2/ Tạm giữ Trần Thanh S: 01 giấy đăng ký xe, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, 01 điện thoại di động Samsung, 01 xe mô tô biển số 64D1-268.60 và số tiền 53.556.000 đồng.

3/ Tạm giữ Trần Minh H: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy căn cước công dân và 01 điện thoại di động Samsung.

Quá trình điều tra Trần Ngọc D khai nhận: D thuê nhà trọ ở tại thành phố Hồ Chí Minh và sinh sống bằng nghề tài xế lái xe ô tô khách. Đầu năm 2020 do tình hình dịch bệnh covid nên D gặp khó khăn về kinh tế. Vào ngày 06/7/2020 D có điện thoại về quê nói chuyện qua lại với em ruột là Trần Thanh S. D than vãn với S là cuộc sống đang gặp khó khăn nên nhờ S đi tìm người mua thuốc lá điếu nhập lậu để D mang thuốc lá điếu nhập lậu về bán lại kiếm tiền lời. D nói cho S biết giá chào hàng của các loại thuốc lá điếu nhập lậu như nhãn hiệu Hero có giá 158.000đồng/01 cây, Jet có giá 188.000 đồng/01 cây, Scott có giá 143.000 đồng/01 cây. Thấy D khó khăn nên S đồng ý giúp, S đến điểm bán tạp hóa tại các chợ xã trên địa bàn huyện Vũng Liêm để tiếp thị chào hàng giá bán các loại thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero, Jet và Scott và để lại số điện thoại nếu có nhu cầu thì liên hệ với S.

Đến ngày 15/7/2020 S nhận được điện thoại của người phụ nữ tên Nga (không biết mặt và cũng không rõ địa chỉ) đặt mua số lượng 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero (2000 bao = 200 cây, 01 cây = 10 bao), 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet (1.500 bao = 150 cây, 01 cây =10 bao) và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott (500 bao = 50 cây, 01 cây = 10 bao). Sau đó S điện thoại cho D biết có người đặt hàng nên D kêu S đến gặp mặt người mua hàng và hỏi địa điểm để giao hàng, S có hẹn gặp Nga và chỉ S địa điểm giao hàng là đi qua cầu N một đoạn về hướng xã H, huyện Vũng Liêm thì có người đón nhận hàng. Lúc này D cũng điện thoại cho người phụ nữ tên O ở huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (không biết mặt, họ tên và địa chỉ) để đặt mua 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero giá 15.200 đồng/1 bao, 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet giá 18.200 đồng/1 bao và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott D không nhớ giá cụ thể.

Đến khoảng 11 giờ ngày 16/7/2020 D điện thoại cho S biết là tối đến sẽ đem thuốc lá về giao, S nói với D khi nào về đến Vĩnh Long thì điện thoại cho S biết. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 16/7/2020 D rủ Trần Minh H là bạn ở gần phòng trọ của D, đi về quê ở Vĩnh Long chơi thì H đồng ý (D không nói cho H biết là đi giao thuốc lá điếu nhập lậu). D và H đến thuê xe ô tô 04 chỗ của anh Dương Minh S, sinh năm 1966 ngụ tại 245, Hùng Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh với giá 600.000 đồng, D nói với anh S là chở khách về Vĩnh Long thì anh S đồng ý. Sau đó D điều khiển xe ô tô biển số 51H-061.58 chở H về đến đoạn cuối đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, D điện thoại cho người phụ nữ tên O để nhận thuốc lá điếu nhập lậu (chưa trả tiền) và tiếp tục điều khiển xe đi về Vĩnh Long. Khi về đến Vĩnh Long, D điện thoại cho S biết và S hẹn đón D ở tại cầu Vĩ, xã P, huyện Vũng Liêm để dẫn đường, S điều khiển xe mô tô 64D1-268.60 chạy trước dẫn đường, D điều khiển xe ô tô biển số 51H-061.58 chở H và thuốc lá chạy phía sau, cả hai xe đi trên hương lộ thuộc địa phận ấp N, xã H, huyện Vũng Liêm hướng về xã H thì bị dừng xe kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Quá trình điều tra Trần Ngọc D và Trần Thanh S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với Trần Minh H qua điều tra H không biết D đi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu, không có vai trò đồng phạm trong vụ án nên không có căn cứ xử lý hình sự.

Đối với người phụ nữ tên O là người bán thuốc lá điếu nhập lậu cho D, từ danh bạ cuộc gọi đi của Trần Ngọc D xác định được người đăng ký số thuê bao 0939366263 là Lê Thị Thúy O, sinh năm 1982 ngụ ấp T, xã P, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Hiện tại O đã bỏ địa phương đi đâu không rõ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm chưa làm việc được sẽ tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với người phụ nữ tên N là người đặt mua thuốc lá điếu nhập lậu, qua điều tra S không biết mặt, họ tên và địa chỉ cụ thể của N, do điện thoại S sử dụng liên lạc với N đã bị mất, hiện tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm không xác định được nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Về vật chứng vụ án:

Đối với xe ô tô biển số 51H-061.58 của anh Dương Minh S là chủ sở hữu, qua điều tra anh S không biết D thuê xe để đi buôn thuốc lá điếu nhập lậu nên không có căn cứ xử lý cần trả lại cho chủ sở hữu.

Ngày 17/8/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm đã trả lại cho anh S nhận lại xong 01 xe ô tô biển số 51H-061.58, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện; trả lại cho Trần Minh H 01 giấy phép lái xe, 01 giấy căn cước công dân và 01 điện thoại di động Samsung.

Đối với số tiền 53.556.000 đồng tạm giữ của Trần Thanh S, qua điều tra xác định được đây là tiền hụi của bạn gái S tên Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1989 nơi cư trú ấp Đông Thạnh A, xã Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, tạm trú tại ấp S, xã L, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. C nhờ S cất giữ số tiền 53.556.000 đồng dùm, do đó không có căn cứ xử lý số tiền trên cần trả lại cho chủ sở hữu. Ngày 18/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm đã trả lại số tiền 53.556.000 đồng cho C nhận lại xong.

Hỉện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm đang tạm giữ: 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm các loại như sau: 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott.

+ Tạm giữ của Trần Ngọc D: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ lái xe, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ trên xe vận chuyển hành khách, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 điện thoại di động Iphone.

+ Tạm giữ của Trần Thanh S 01 giấy đăng ký xe, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, 01 điện thoại di động Samsung, 01 xe mô tô biển số 64D1-268.60.

Bản cáo trạng số: 83/CT-VKSHVL ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long truy tố các bị cáo Trần Ngọc D và Trần Thanh S về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũng Liêm đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự tuyên bố: Các bị cáo Trần Ngọc D và Trần Thanh S phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng: điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D có mức án từ 05 (Năm) năm đến 06 (Sáu) năm tù.

Áp dụng: điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Thanh S có mức án 05 (Năm) năm tù.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 2.000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott (trong đó có niêm phong 6 thùng).

+ Trả lại cho bị cáo D: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ lái xe, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ trên xe vận chuyển hành khách, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 điện thoại di động Iphone.

+ Trả lại cho bị cáo S: 01 giấy đăng ký xe, 01 chứng minh nhân dân, 01 điện thoại di động Samsung, 01 xe mô tô biển số 64D1-268.60.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Xin hội đồng xét xử xem xét mức độ phạm tội của các bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào lúc 22 giờ 00 phút ngày 16/7/2020 trên hương lộ thuộc địa phận ấp N, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vũng Liêm bắt quả tang Trần Ngọc D, Trần Thanh S có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. Tang vật thu giữ: 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm các loại như sau: 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott.

[2] Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng bị thu giữ là 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại: Hero, Jet, Scott; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định các bị cáo đã có hành vi buôn bán 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại: Hero, Jet, Scott và bị bắt quả tang trên đường vận chuyển về xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

[3] Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc buôn bán với phương thức mua đi bán lại để kiếm lời. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế trong phạm vi lãnh thổ nước ta, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Do đó có đủ cơ sở khách quan để kết luận bị cáo Trần Ngọc D và bị cáo Trần Thanh S đã phạm vào tội “Buôn bán hàng cấm” như cáo trạng số 83/CT.VKS ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũng Liêm là đúng người đúng tội đúng pháp luật. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao;”

Trong vụ án này các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm nhưng bị cáo D với vai trò chính là người khởi xướng, trực tiếp rủ rê, lôi kéo bị cáo S mua thuốc lá điếu nhập lậu để bán lại kiếm lời, trực tiếp liên lạc với đối tượng bán thuốc lá, trực tiếp nhận 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu. Do đó bị cáo D phải chịu hình phạt nặng hơn so với bị cáo S, bị cáo S với vai trò giúp sức vì muốn giúp anh ruột có thu nhập mà phạm tội, bị cáo không có hưởng lợi. Nên cần thiết phải có hình phạt tương xứng để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ về tội danh, về hình phạt cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị cáo Trần Ngọc D và bị cáo Trần Thanh S có tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo có cha ruột là ông Trần Văn Sành tham gia kháng chiến chống Mỹ theo Quyết định số: 1893/QĐ-CTN ngày 15/9/2017 của Chủ tịch nước, có bà nội là bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Bị cáo D có giấy khen đóng góp quỹ phúc lợi cho địa phương.

Bị cáo S có hoàn cảnh khó khăn vợ ly hôn, bị cáo đang nuôi con dưới 12 tuổi, bản thân bị bệnh tiểu đường, bị tai nạn giao thông chấn thương não, bị cáo trực tiếp phụng dưỡng cha già trên 70 tuổi là người có công, không còn khả năng lao động.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân, tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Với mức án trên cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành một công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về vật chứng: 01 điện thoại di động Iphone của bị cáo D, 01 điện thoại di động Samsung và 01 xe mô tô biển số 64D1-268.60 của bị cáo S là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung công quỹ.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Ngọc D và Trần Thanh S phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

- Căn cứ vào: điểm e khoản 2 Điều 190; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 17 tháng 7 năm 2020.

- Căn cứ vào: điểm e khoản 2 Điều 190; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh S 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 17 tháng 7 năm 2020.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 2.000 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và 500 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott (trong đó có niêm phong 6 thùng).

+ Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc D: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ lái xe, 01 giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ trên xe vận chuyển hành khách, 01 giấy chứng minh nhân dân.

+ Tịch thu của bị cáo D: 01 điện thoại di động Iphone sung công quỹ Nhà nước.

+ Trả lại cho bị cáo Trần Thanh S: 01 giấy chứng minh nhân dân.

+ Tịch thu của bị cáo S: 01 giấy đăng ký xe, 01 điện thoại di động Samsung, 01 xe mô tô biển số 64D1-268.60 sung công quỹ Nhà nước.

Hiện vật chứng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 10 năm 2020.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Bị cáo Trần Ngọc D và bị cáo Trần Thanh S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ sau ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử lại phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;