Bản án 81/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 81/2019/HS-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019, đối với:

Bị cáo Vũ Tiến K - Sinh ngày 02 tháng 12 năm 1993 tại Đà Nẵng.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số 95 đường X, phường Y, quận Z, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Tiến H và bà Trần Thị T; gia đình có 04 người con, bị cáo là con út.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12.4.2019, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Văn Ngọc M - Sinh năm 1993. Trú tại: K121/53 đường M, phường I, quận Z, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 10 phút ngày 12.4.2019, tại ngã tư đường Hùng Vương - Nguyễn Chí Thanh, phường Hải Châu I, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang Vũ Tiến K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ của Vũ Tiến K:

- 01 bì thư kích thước 10,5 cm x 18,5 cm, bên trong có chứa 05 viên nén hình tròn, màu xanh, một mặt có chữ “LV” (được niêm phong, ký hiệu A);

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng BKS 43E-380.62, số máy JF73E0016470, số khung 0730XGY016404;

- 01 điện thoại di động có dòng chữ Samsung màu đen, số IMEI 1: 353759090394036, số IMEI 2: 353760090394034; bên trong chứa Sim số 1: 0908.472.320; Sim số 2: 0963.785.201.

Tại Kết luận giám định số 117/GĐ-MT ngày 19.4.2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Các viên nén màu xanh và chất bột màu xanh do các viên nén bị vỡ hình thành trong bì niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Methaphetamine và MDMA, khối lượng viên nén và chất bột: 1,561 gam. Hoàn trả lại đối tượng giám định gồm: 0,519 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói.

Qua điều tra, Vũ Tiến K khai nhận:

Khoảng 20 giờ 00 ngày 12.4.2019, Vũ Tiến K đi dự sinh nhật của bạn tại quán Karaoke trên đường Nguyễn Văn Thoại, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Vũ Tiến K đi đến Bar F3 Club trên đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố Đà Nẵng để hỏi mua ma túy (thuốc lắc) của một người quen biết ngoài xã hội (chưa xác định được lai lịch) với giá 400.000 đồng/viên. Người này đưa cho Vũ Tiến K một phong bì chứa 05 viên thuốc lắc, Sang cất trong người (túi quần). Sau đó, Vũ Tiến K điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH màu trắng, BKS 43E1 - 380.62 đến Bar TV Club để chơi. Đến khoảng 23 giờ 10 phút ngày 12.4.2019, khi đến ngã tư đường Hùng Vương - Nguyễn Chí Thanh, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Ngoài ra, Vũ Tiến K còn khai nhận từ đầu năm 2019 đến nay đã mua ma túy khoảng 03 -04 lần cũng với cách thức trên để sử dụng cùng bạn bè tại các vũ trường, quán bar.

Tại Bản kết luận điều tra số 81/ĐTMT ngày 11.6.2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đề nghị truy tố Vũ Tiến K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 25.6.2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố Vũ Tiến K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; thống nhất với kết luận giám định; bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Vũ Tiến K như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Tiến K từ 12 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tuyên tịch thu và tiêu hủy: 0,519 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói.

+ Trả lại cho bị cáo Vũ Tiến K 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, BKS 43E1-380.62, số máy JF73E0016470, số khung 0730XGY016404; 01 điện thoại di động có dòng chữ Samsung màu đen, số IMEI 1: 353759090394036, số IMEI 2: 353760090394034; bên trong chứa Sim số 1: 0908.472.320; Sim số 2: 0963.785.201.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến K thừa nhận: Vào lúc 23 giờ 10 phút ngày 12.4.2019, tại ngã tư đường Hùng Vương - Nguyễn Chí Thanh, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Vũ Tiến K bị Tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu phát hiện bắt quả tang đang tàng trữ 1,561 gam ma túy loại Methamphetamine và MDMA nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi trên đây của Vũ Tiến K đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy: Bị cáo Vũ Tiến K nhận thức rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng nên vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Khung hình phạt bị cáo bị truy tố, xét xử có mức án từ 01 năm đến 05 năm tù nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến K đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về quyết định hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo Vũ Tiến K hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng đồng thời để răn đe, phòng chống tội phạm nói chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc cấm làm công việc nhất định từ một đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động phổ thông, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng và đang ở cùng gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,519 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định: Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, BKS 43E1-380.62, số máy JF73E0016470, số khung 0730XGY016404; 01 điện thoại di động có dòng chữ Samsung màu đen, số IMEI 1: 353759090394036, số IMEI 2: 353760090394034; bên trong chứa Sim số 1: 0908.472.320; Sim số 2: 0963.785.201. Các tài sản này không liên quan đến việc tàng trữ ma túy nên trả lại cho bị cáo Vũ Tiến K là có căn cứ.

[9] Về án phí: Bị cáo Vũ Tiến K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Tiến K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Vũ Tiến K 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (12.4.2019).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tch thu và tiêu hủy: 0,519 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định;

- Trả lại cho bị cáo Vũ Tiến K: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH màu trắng, BKS 43E1-380.62, số máy JF73E0016470, số khung 0730XGY016404; 01 điện thoại di động có dòng chữ Samsung màu đen, số IMEI 1: 353759090394036, số IMEI 2: 353760090394034; bên trong chứa Sim số 1: 0908.472.320; Sim số 2: 0963.785.201.

(Các vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 7 năm 2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Tiến K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 81/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;