TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 811/2017/HSST NGÀY 14/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2017/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2017/HSST-QĐ ngày 29/11/2017 đối với bị cáo
- Họ và tên: Bùi Khoa Đ, sinh năm 1990.
Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn Q, xã Th, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Bố: Bùi Khoa B (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1959. Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ 5. Bị cáo chưa có vợ, con.
- Nhân thân: Năm 2009 phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 09 tháng tù, đã chấp hành xong và đã được xóa án tích. Năm 2011 bị đưa đi cơ sở giáo dục bắt buộc tại Thanh Hà, thời hạn 24 tháng.
- Tiền sự: Không.
- Tiền án: 01 tiền án - Bản án số 50/2014/HSST ngày 10/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tháng 01/2015 chấp hành xong án phí hình sự, ngày 29/4/2016 chấp hành xong hình phạt tù.
Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tiền Hải từ ngày 04/9/2017 cho đến nay. (Bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên toà).
* Người bị hại: Anh Nguyễn Huy T, sinh năm 1992. Trú tại: Thôn N, xã H, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
* Người làm chứng:
- Anh Đặng Văn L, sinh năm 1989.
- Chị Lê Thị Ch, sinh năm 1988.
Đều trú tại: Thôn Q, xã Th, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
- Anh Trần Văn S, năm 1992.
Trú tại: Thôn N, xã H, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa vắng mặt anh T, anh L, chị Ch, anh S).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h00’ ngày 03/9/2017 Đặng Văn L là bạn của Đ điều khiển xe máy đến nhà rủ Đ đi chơi, đến 22h30’ cùng ngày L điều khiển xe máy chở Đ đi về nhà, khi đi qua quán bi-a của anh Tạ Văn Ch ở thôn A, xã Th, huyện Tiền Hải, Đ nhìn qua cửa vào trong quán thấy điện sáng có người chơi bi-a, Đ nói với L “Vào đây chơi tý”, thì L nói “Mày vào chơi tao đứng ngoài thôi”, sau đó L dừng xe để Đ đi vào trong quán chơi còn L điều khiển xe đi khoảng 30’ thì quay lại. Đ đi vào trong quán bi-a thấy có 03 bàn bi-a có người chơi, Đ đi vào bàn bi-a trong cùng đứng xem được khoảng 05 phút thì Đ đi lại hỏi xin nước để uống, khi uống xong nước Đ phát hiện có 01 chiếc điện thoại di động Iphone6s plus của anh Nguyễn Huy T ở Thôn N, xã H, huyện Tiền Hải để trên bàn, Đ nảy sinh ý định trộm cắp. Quan sát thấy anh T và những người chơi bi-a không ai để ý, Đ lấy khẩu trang có sẵn trong túi quần đeo vào miệng, rồi dùng tay phải lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần phía sau bên phải đi bộ ra ngoài gọi L thì thấy LĐ đứng ở trước cửa gần quán bi-a, L điều khiển xe mô tô chở Đ đi về nhà, Đ cất dấu chiếc điện thoại vừa trộm cắp được vào trong tủ quần áo của gia đình.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Hồi 23h00’ ngày 03/9/2017, tại quán bi-a của anh Tạ Văn Chí bị cáo đã trộm cắp của anh Nguyễn Huy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s plus.
Bản cáo trạng số 84/KSĐT ngày 14/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Bùi Khoa Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung. Trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc cơ quan Điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Huy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s plus đã qua sử dụng; Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc khẩu trang bằng vải màu tím than có hoa văn hình tròn màu trắng.
Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên là các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo không khiếu nại hay có ý kiến gì.
[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ và được chứng minh bằng:
- Đơn trình báo và lời khai của người bị hại là anh Nguyễn Huy T.
- Sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản quản lý vật chứng do cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tiền Hải lập hồi 10h30’ và 16h15’ cùng ngày 04/9/2017.
- Kết luận định giá tài sản số 38 ngày 04/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiền Hải kết luận: 01 chiếc điện thoại Apple Iphone 6s plus đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 8.700.000đồng.
- Lời khai của nhứng người làm chứng: anh L, anh S và chị Ch. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 23h00’ ngày 03/9/2017, tại quán bi-a của anh Tạ Văn C, ở thôn A, xã Th, huyện Tiền Hải bị cáo Bùi Khoa Đ có hành vi trộm cắp của anh Nguyễn Huy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s plus đã qua sử dụng trị giá 8.700.000đồng.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, thể hiện sự liều lĩnh của bị cáo, vì vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian, như vậy mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói Chung.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần phạm tội và bị đưa đi cơ sở giáo dục dục bắt buộc. Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm p, khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm Chung.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Sau khi tiến hành định giá tài sản và xác định được chủ sở hữu, cơ quan Điều tra đã trả lại anh Nguyễn Huy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s plus là phù hợp. Chiếc khẩu trang bằng vải màu tím than có hoa văn hình tròn màu trắng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản anh Nguyễn Huy T không có yêu cầu đề nghị gì về việc bồi thường trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết.
Đối với Đặng Văn L là người chở Bùi Khoa Đ đi chơi, L và Đ không có bàn bạc gì với nhau về việc đi trộm cắp tài sản; Đ nảy sinh ý định và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi vào quán bi-a, L không biết; sau khi trộm cắp được tài sản Đ không nói cho L biết nên cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tiền Hải không xử lý đối với L là phù hợp.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tội danh: T bố bị cáo Bùi Khoa Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm p, khoản 1 Điều 46; điểm g, khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Khoa Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2017.
3. Trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Huy T đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra giải quyết.
4. Xử lý vật chứng:
- Chấp nhận việc cơ quan Điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Huy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6S plus đã qua sử dụng.
- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc khẩu trang bằng vải màu tím than có hoa văn hình tròn màu trắng.
(Vật chứng của vụ án Công an huyện Tiền Hải đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải ngày 15/11/2017).
5. Án phí: Áp dụng theo Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Bùi Khoa Đ phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày T án 14/12/2017, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 81/2017/HSST ngày 14/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 81/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về