Bản án 811/2017/HSPT ngày 14/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 811/2017/HSPT NGÀY 14/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 809/2017/HSPT ngày 24 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 181/2017/HSST ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội:

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoàng H, sinh năm: 1988; ĐKHKTT và nơi ở: số 1 ngõ 13 H, phường P, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958 và bà Tô Ngọc P, sinh năm 1963; Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự Ngày 24/8/2016, Công an phường Hàng Buồm xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị tạm giữ ngày 11/12/2017, tạm giam ngày 20/12/2016, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra còn có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo vắng mặt do Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, vụ án có nội dung như sau:

Khoảng 15 giờ 00phút ngày 10/12/2016, tổ công tác Công an phường Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội làm nhiệm vụ trên tầng 8 quán cà phê 22 Cầu Đất, Hoàn Kiếm, Hà Nội, phát hiện Phan Nam D (SN: 1994, HKTT: 119 phố Phủ Doãn, Hoàn Kiếm, Hà Nội) gọi điện thoại mua bán gì đó với giá 100.000 đồng, tổ công tác tiến hành theo dõi. Khoảng 10 phút sau D nghe điện thoại và đi xuống tầng 1 quán Cà phê. Tổ công tác đi theo thì thấy D gặp Nguyễn Hoàng H đang đứng cạnh chiếc xe máy Jupiter BKS: 29C1 - 46056 ở trước quán cà phê 22 phố Cầu Đất. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra D và H, qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên ngoài của H đang mặc có 02 túi nilon chứa thảo mộc khô. H khai là cần sa mang đến giao cho D. Tổ công tác đã niêm phong tang vật và đưa H và D về trụ sở Công an phường Chương Dương làm rõ. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe máy Jupiter màu bạc BKS: 29C1: 460.56; 01 điện thoại Nokia 1280 bên trong có sim số 0947286788; 01 ví màu đen cũ và 600.000 đồng.

Thu giữ của Phan Nam D: 01 điện thoại MI màu trắng bên trong có sim số: 016888555580; 200.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Hoàng H khai nhận: Có quen biết với Phan Nam D khoảng 4 tháng. Thời gian quen D, thỉnh thoảng H có đi uống nước và sử dụng cần sa cùng với D. Vào khoảng 14 giờ ngày 10/12/2016, H điều khiển xe máy Yamaha Jupiter BKS: 29C1: 460.56 ra hồ Trúc Bạch mua cần sa thì nhận được điện thoại của D gọi bằng số 01588555580 vào số 0947286788 của H nhờ mua 01 gói cần sa với giá 100.000 đồng và hẹn mang đến quán Cà phê 22 phố Cầu Đất giao cho D. Khi đến trước cửa quán Cà phê 22 Cầu Đất, H gọi điện cho D xuống lấy nH chưa kịp giao cho D thì bị kiểm tra bắt giữ. Chiếc xe máy Yamaha Jupiter BKS: 29C1: 460.56 H khai mượn của mẹ là bà Tô Ngọc P (sinh năm: 1963, HKTT: Số 3 ngõ 1 H - H - Hà Nội) để sử dụng.

Ngoài lần này H khai nhận trước đây đã bán cần sa cho D 02 lần và được D mời uống nước, sử dụng cần sa.

Lần thứ nhất: Khoảng một tháng trước khi bị bắt, D nhờ H mua 01 gói Cần sa với giá 100.000 đồng. Sau đó H vào khu phố cổ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội (không nhớ địa chỉ cụ thể) mua của một nam thanh niên 01 gói cần sa với giá 100.000 đồng. Sau đó H mang về quán cà phê số 5 phố Chợ Gạo sử dụng cùng D. Số cần sa còn lại chưa sử dụng hết H bán cho D với giá 100.000 đồng.

Lần thứ hai: Trước khi bị bắt khoảng 10 đến 15 ngày H mua  01 gói cần sa trong khu vực phố cổ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội (không nhớ địa chỉ cụ thể) với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được cần sa H ngồi uống nước ở phố Chợ Gạo thì D gọi điện bảo H đến số 5 Chợ Gạo. Tại đây H lấy gói cần sa vừa mua sử dụng cùng D, số cần sa còn lại D mua lại của H với giá 100.000 đồng, (BL:71- 97).

Tại biên bản hỏi cung ngày 11/4/2017, Nguyễn Hoàng H không nhận mình bán cần sa cho Phan Nam D mà chỉ nhận ngày 10/12/2016 trên đường mua cần sa về sử dụng khi đi về đến trước của quán cà phê 22 phố Cầu Đất thì bị bắt giữ. Lời khai trước đây H khai mua cho D cần sa 03 lần là do bị ép cung (bị tát vào má) tại công an phường Chương Dương. Xác minh tại công an phường Chương Dương không có sự việc H bị ép cung như lời khai, việc H khai bị ép cung là không có căn cứ (BL: 193-197).

Phan Nam D khai có quen H khoảng 4 tháng, trong thời gian này D đã 03 lần mua cần sa của H như lời khai của H (từ bút lục 71- 97) phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Số tiền 200.000 đồng bị thu giữ D dùng để mua cần sa, không bị ép cung, bức cung (BL: 105-118)

Đối với chiếc xe máy Yamaha Jupiter BKS: 29C1: 460.56, H mượn rồi sử dụng vào việc mua bán ma túy bà P không biết nên ngày 03/3/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm đã trao trả chiếc xe trên cho bà P bà P đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì khác.

Tại Bản án sơ thẩm số 181/2017/HSST ngày 21/9/2017 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố Nguyễn Hoàng H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS, xử phạt Nguyễn Hoàng H 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2016.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 27 tháng 9 năm 2017 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai khi bị bắt có cất giữ 02 túi cần sa có tổng trọng lượng 4,984g, bị cáo không bán ma tuý và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án: Bị cáo Nguyễn Hoàng H khai bị cáo chỉ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, bị cáo không bán ma tuý cho anh Phan Nam D, xong căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS xử phạt bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo thấy: bị cáo phạm tội nghiêm trọng, nhân thân có 01 tiền sự cùng về hành vi ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới làm căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng cáo.

Sau khi kiểm tra, xem xét các tài liệu chứng cứ tại phiên tòa, qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng H trong hạn luật định là hợp lệ nên được chấp nhận.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai chỉ cất giữ 4,984g cần sa để sử dụng, chứ không bán ma túy cho D, xong căn cứ vào lời khai tại cơ quan điều tra của bị cáo (BL 73-95, 188-192), lời khai của anh Phan Nam D là người mua ma tuý của bị cáo (BL 105-118), vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo có hành vi bán ma túy là cần sa ngày 10/12/2016 và 02 lần trước khi bị bắt cho anh D, bị cáo mua bán ma túy nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự, xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung phạm tội nhiều lần là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất độc dược, gây mất trật tự an toàn xã hội.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt 07 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa bị cáo cũng không xuất trình tài liệu, chứng cứ nào mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do vậy không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không nhận tội, tuy nhiên bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, để không làm xấu đi tình trạng của bị cáo Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên;

Áp dụng điểm a, khoản2, Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số 181/2017HSST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phó Hà Nội:

2. Tuyên bố Nguyễn Hoàng H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Hoàng H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2016.

4. Áp dụng:Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

5. Bị cáo phải nộp 200.000 đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 811/2017/HSPT ngày 14/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:811/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;