Bản án 80/2021/HSST ngày 29/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 80/2021/HSST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 60/2021/HSST ngày 08/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST-HS ngày 17/02/2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trương Thanh T; tên gọi khác: Không, giới tính: Nam; sinh ngày 01/12/1988; nơi đăng ký HKTT: tổ 5, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Không; con ôngTrương Văn S và bà Đào Thị Th; có vợ là Trần Thị Y; có 02 con; tiền án:

Tại bản án số 117/2015/HSST ngày 15/4/2015 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 07 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chưa bồi thường cho bị hại là anh Trương Trung Định 2.500.000 đồng; tiền sự: Không; nhân thân:

+ Tại Bản án số 02/2007/HSST ngày 10/01/2007 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gia thử thách 48 tháng về tội “ Phá hủy công trình quan trọng an ninh quốc gia”;

+ Tại Bản án số 328/2013/HSST ngày 19/8/2013 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 3 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 12/11/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Bùi Thanh Tr; tên gọi khác : Không; giới tính: Nam; sinh ngày 05/8/1987; nơi đăng ký HKTT: tổ 3, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Không; con ông Bùi Xuân Th, (đã chết) và bà Mai Thị Ng; có vợ là Nguyễn Thị M (đã ly hôn); có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

+ Tại Bản án số 02/2007/HSST ngày 10/01/2007 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “ Phá hủy công trình quan trọng an ninh quốc gia”;

+ Tại Bản án số 278/2015/HSST ngày 23/9/2015 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Nguyễn Quỳnh Th, sinh năm: 1999 Địa chỉ: Thôn B, xã K, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn 2. Diệp Văn Bảo D, sinh năm: 1996 Địa chỉ: Xóm Nh, thị trấn Ch, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 3. Nguyễn Thị Tường V, sinh 2000 Địa chỉ: Khu 5, xã Ng, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Trung Đ, sinh năm1986 Địa chỉ: tổ 05, phường Tr, thành phố Thái Nguyên

2. Nguyễn Việt H, sinh năm 1988 Địa chỉ: ổ 05, phường Tr, thành phố Thái Nguyên (bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28/10/2020, Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhât: Khoảng 07h ngày 28/10/2020, Bùi Thanh Tr điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva, màu xanh, BKS: 20F5-8401 chở Trương Thanh T đi từ khu vực phường Tân Thành, thành phố Thái Nguyên đến khu vực phường Đ, thành phố Thái Nguyên để trộm cắp tài sản. Tr mang theo 01 chiếc ba lô màu đen có chữ “PHI LONG”, bên trong có 01 thanh kim loại hình lục giác, một đầu dẹt có lưỡi sắc, dài 29cm và 01 chiếc kìm dài 21cm, chuôi cầm bằng nhựa màu xanh xám.

Tr điều khiển xe chở T đến trước cổng xóm trọ của chị Trần Hồng Trang, sinh năm1982, thuộc tổ 04, phường Đ, thành phố Thái Nguyên thì dừng lại. T xuống xe đi vào trong xóm trọ để trộm cắp tài sản, còn Tr ngồi ở trên xe cảnh giới cho T. T đeo chiếc ba lô do Tr chuẩn bị, trèo qua cổng vào trong xóm trọ. T đi đến phòng thứ hai sử dụng thanh kim loại phá khóa cửa phòng trọ của chị Nguyễn Quỳnh Th, sinh năm: 1999, trú tại: Thôn Bản Vèn, xã Kim Hỷ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. T đi vào phòng lấy 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspiron 3558, vỏ màu đen đang để ở trên bàn cạnh đầu giường, cho vào ba lô. Sau đó, T đi sang phòng của anh Diệp Văn Bảo D, sinh năm 1996, trú tại:

Xóm Nhập Thành, thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, dùng thanh kim loại phá khóa cửa đi vào trong phòng, lấy chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 5490, vỏ màu xám để ở trên giường cho vào ba lô, sau đó trèo ra khỏi xóm trọ. Tr chở T đi đến cửa hàng mua bán máy tính Trung Đ thuộc tổ 05, phường Tr, thành phố Thái Nguyên, bán cho anh Nguyễn Trung Đ chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 5490, vỏ màu xám với giá 6.000.000 đồng và chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspiron 3558, vỏ màu đen với giá 2.000.000 đồng. Tr và T chia nhau mỗi người 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

Vật chứng của vụ án: 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 5490, vỏ màu xám, seri: CXWKZZ2, RAM: 4GB, chip core i3 đã qua sử dụng, đã được thu hồi trả lại cho anh D.

01 (Một) chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspiron 3558, vỏ màu đen, seri: B55V1C2, RAM: 4GB, chip core i3, đã qua sử dụng, đã được thu hồi trả lại cho chị Th.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 276 ngày 05/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên xác định: Tổng trị giá 02 chiếc máy tính xác tay của chị Th và anh D đã qua sử dụng là 13.000.000đ (Mười ba triêu đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 08h ngày 28/10/2020, Bùi Thanh Tr điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva, màu xanh, BKS: 20F5-8401 chở Trương Thanh T đi đến trước cổng xóm trọ của anh Đoàn Đức H, sinh 1983 ở tổ 05, phường Ch, thành phố Thái Nguyên. T xuống xe đi vào trong xóm trọ để trộm cắp tài sản, còn Tr ngồi trên xe đỗ cạnh cổng, cảnh giới cho T. T dùng thanh kim loại dài khoảng 29 cm cậy phá khóa cửa phòng của chị Nguyễn Thị Tường V, sinh 2000, trú tại: Khu 5, xã Ng, huyện C, tỉnh Phú Thọ. T lục lọi tủ quần áo thấy có 01 con lợn bằng đất nung, màu vàng để ở góc tủ quần áo. T lấy con lợn đất ra để ở giường rồi dùng thanh kim loại đập vỡ. Theo T trình bày bên trong con lợn đất có số tiền 400.000đ nên đã cầm lấy cho vào túi quần. Sau đó, T đi ra chỗ của Tr đang đợi, thấy một con chó giống Poodle, lông màu nâu đỏ chạy từ phòng của chị V ra chỗ Tr đang đứng đợi. Tr liền dùng tay trái bế con chó lên. Sau đó, Tr điều khiển xe chở T đi về nhà của Tr ở tổ 03, phường T, thành phố Thái Nguyên. Tr và T chia nhau mỗi người 200.000 đồng. Đến khoảng 11h cùng ngày, Tr mang con chó Poodle đi đến nhà Nguyễn Trung Đ, sinh1986, trú tại: Tổ 05, phường Tr, thành phố Thái Nguyên bán cho vợ của Đ là Nguyễn Việt H, sinh năm 1988, trú tại: Tổ 05, phường Tr, thành phố Thái Nguyên được 2.000.000 đồng, Tr đưa cho T số tiền 1.000.000 đồng, Tr cầm 1.000.000 đồng. Ngày 12/11/2020, Trương Thanh T đến Công an thành phố Thái Nguyên xin đầu thú về hành vi Trộm cắp tài sản của mình.

Vật chứng của vụ án: 01 con chó Poodle, lông màu nâu đỏ, cân nặng: 2,8 kg, đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu; 01 con lợn bằng đất nung, màu vàng, đã qua sử dụng đã bị vỡ; số tiền 400.000 đồng không thu hồi được.

Tại Bản kết luận số 275 ngày 04/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự TP Thái Nguyên xác định: Trị giá 01 con chó Poodle là 2.980.000đ, trị giá 01 con lợn bằng đất nung, màu vàng là 20.000đ.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva, màu xanh, BKS: 20F5-8401, 01 chiếc ba lô màu đen có chữ “PHI LONG”, 01 thanh kim loại hình lục giác, và 01 chiếc kìm dài 21cm, chuôi cầm bằng nhựa màu xanh xám đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKSTPTN ngày 08/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã quyết định truy tố Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 71/CT-VKSTPTN ngày 08/02/2021, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Trương Thanh T từ 18 đến 24 tháng tù;

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Bùi Thanh Tr từ 18 đến 24 tháng tù.

- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: buộc các bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho chị V số tiền 400.000 đồng và giá trị con lợn đất theo Kết luận định giá tài sản;

Về vật chứng đề nghị: tịch thu nộp ngân sách Nhà nước chiếc xe mô tô, tịch thu tiêu hủy các vật chứng khác. Buộc các bị cáo phải nộp số tiền 10.000.000 đồng do phạm tội mà có.

Trong phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T đều khai nhận đã chuẩn bị thanh kim loại bẩy, phá khóa cửa, trộm cắp tài sản gồm 02 chiếc máy tính, 01 con lợn đất trong có 400.000 đồng và 01 con chó Poodle, sau khi trộm cắp được tài sản các bị cáo đã đem bán, chia nhau tiền như Cáo trạng mô tả là đúng.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các biên bản xác định hiện trường, biên bản sự việc, Kết luận định giá tài sản, vật chứng thu được và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, theo Kết luận định giá, vụ thứ nhất các bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị 13.000.000 đồng, vụ thứ hai tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị 3.400.000 đồng, đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4] Bản cáo trạng số 71/CT-VKSTPTN ngày 08/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố Bùi Thanh Tr và Trương Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[5] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

[6] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và đều phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là phạm tội từ 02 lần trở lên. Trương Thanh T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tái phạm và được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là đầu thú.

Về vai trò của các bị cáo:

[7] trong vụ án này Bùi Thanh Tr là người chuẩn bị công cụ, phương tiện, khởi xướng việc trộm cắp tài sản. Trương Thanh T là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Các bị cáo cùng được hưởng lợi như nhau về giá trị tài sản chiếm đoạt. Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của từng bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt đối với bị cáo:

[8] Hội đồng xét xử thấy, các bị cáo có nhân thân rất xấu, phạm tội nhiều lần, bị cáo Trương Thanh T phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, nên áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung:

[9] Các bị cáo đều không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

[10] Đối với tài sản các bị cáo trộm cắp đã được thu hồi, bị hại không có yêu đề nghị gì khác, nên không xem xét. Đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị Tường V cho rằng bị mất số tiền trong con Lợn đất và có đơn yêu cầu các bị cáo bồi thường 2.000.000 đồng, nhưng không có căn cứ chứng minh. Các bị cáo chỉ thừa nhận số tiền trong con lợn đất là 400.000 đồng, nên buộc các bị cáo phải bồi thường cho chị V số tiền 400.000 đồng và giá trị con lợn đất là 20.000 đồng.

Về vật chứng:

[11] Chiếc xe mô tô các bị cáo sử dụng làm phương tiện khi thực hiện tội phạm, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, tịch thu tiêu hủy các vật chứng khác.

Về biện pháp tư pháp:

[12] Đối với số tiền các bị cáo bán 02 chiếc máy tính, bán chó mà có là 10.000.000 đồng. Anh Đ chị H là người mua tài sản không yêu cầu các bị cáo phải trả lại, đây là số tiền do phạm tội mà có, nên buộc các bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự phần bồi thường; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Trương Thanh T 30 (ba mươi) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 12/11/2020.

2. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Bùi Thanh Tr 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 31/10/2020.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

4. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam các bị cáo Trương Thanh T, Bùi Thanh Tr, mỗi bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

5. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, Điều 585, Điều 589; Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự:

Buộc các bị cáo Trương Thanh T, Bùi Thanh Tr có trách nhiệm liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thị Tường V 420.000 đồng, trong đó mỗi bị cáo phải bồi thường 210.000 đồng.

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu các bị cáo không tự nguyện thi hành số tiền trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương tứng với thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong. Mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả. Trường hợp không thỏa thuận được về lãi suất chậm trả thì được xác định bằng 50% của mức lãi suất theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

6. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Viva, số loại FD110, màu sơn: xanh, BKS: 20F5-8401, số máy: E412-VN 136707, số khung: BE42D-VN136707; dung tích xi lanh: 109, đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc ba lô màu đen có chữ “PHI LONG”, 01 thanh kim loại hình lục giác, một đầu dẹt có lưỡi sắc, dài 29cm và 01 chiếc kìm dài 21cm, chuôi cầm bằng nhựa màu xanh xám.

nh trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 244 ngày 08/3/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

7. Về biện pháp tư pháp: Buộc Trương Thanh T và Bùi Thanh Tr, mỗi bị cáo phải nộp số tiền 5.000.000 đồng vào ngân sách Nhà nước.

8. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí:

- Buộc bị cáo Trương Thanh T, Bùi Thanh Tr, mỗi bị cáo phải nôp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Buộc bị cáo Trương Thanh T, Bùi Thanh Tr mỗi bị cáo phải chịu 300.000 đồng án phí phần bồi thường.

9. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2021/HSST ngày 29/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:80/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;