Bản án 80/2020/HSST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 80/2020/HSST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 79/2019/TLST- HS, ngày 23 tháng 01 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2020/QĐXXST-HS ngày 18/12/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 25/6/1987, giới tính: Nam; Nơi cư trú: thôn T, xã V, huyện V, tỉnh T; Nghề nghiệp: lao động tự do, trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không, Họ tên cha: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1958, đã chết; họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1962, trú tại thôn T, xã V, huyện V, tỉnh T. Bị cáo chưa có vợ, con.Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2016/HSST ngày 21/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh T, xử phạt 04 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Đánh bạc. Nguyễn Văn T chấp hành xong thời gian thử thách ngày 05/5/2017 (được giảm 02 tháng 16 ngày), và chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 12/01/2017. Bị bắt, tạm giữ từ ngày 10/10/2020, đến ngày 13/10/2020 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện V. (Có mặt) * Người làm chứng: Anh Bùi Anh T, sinh năm 1982 (vắng mặt). Nơi cư trú: thôn B, xã V, huyện V, tỉnh T. Ông Trần Đình M, sinh năm 1967 (vắng mặt). Nơi cư trú: thôn B, xã V, huyện V, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 20 phút ngày 10/10/2020, tại đường trục thôn B, xã V, huyện V, tỉnh T, tổ công tác Công an huyện V phát hiện Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Lisohaka, biển số đăng ký 17H2 - 4977 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Tổ công tác đã mời người dân chứng kiến việc kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi quần soóc bên trái phía sau T đang mặc 01 gói được bằng giấy tráng kim màu trắng, mở ra bên trong chứa ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1206 gam (Không phẩy một nghìn hai trăm linh sáu gam). Tổ công tác đã dẫn giải T đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng; quản lý xe mô tô của T.

Trong quá trình điều tra, truy tố, Nguyễn Văn T khai nhận: T sử dụng ma túy từ cuối năm 2018. Khoảng 09 giờ 30 ngày 10/10/2020, T điều khiển xe mô tô từ nhà đến khu vực gần nghĩa trang xã V, thành phố T với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người nam giới khoảng 25 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy (Heroine) với giá 200.000 đồng. T cất giấu gói ma túy vào trong túi quần soóc bên trái phía sau rồi đi về. Khi về đến thôn B, xã V, huyện V, tỉnh T thì bị tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt giữ.

- Bản Kết luận giám định số 368/KLGĐMT-PC09 ngày 12/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1206 gam (Không phẩy một nghìn hai trăm linh sáu gam).

Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ(Bút lục số 14).

- Cáo trạng số 83/CT-VKSVT, ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn T từ 01năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, và bị cáo không có tài sản, không có thu nhập.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Văn T niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 368/KLGĐMT-PC09 ngày 12/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (có đặc điểm như biên bản quản lý).

- Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V. Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người làm chứng là anh Bùi Anh T, sinh năm 1982 và anh Trần Đình M, sinh năm 1967 (Bút lục số 66 đến 73); và còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện V lập ngày 10/10/2020, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh T (Bút lục số 05 đến 07); Bản Kết luận giám định số 368/KLGĐMT-PC09 ngày 12/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (Bút lục số 14); cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 10 giờ 20 phút ngày 10/10/2020, tại đường trục thôn B, xã V, huyện V, tỉnh T, tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn T cất giấu trái phép 01 gói Heroine, khối lượng 0,1206 gam trong túi quần soóc bên trái phía sau, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và vai trò của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy phải cần phải xử lý nghiêm khắc thì mới có tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “ thành khẩn khai báo” vì vậy cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự theo như quan điểm của Kiểm sát viên đại diện cho VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục và cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Văn T niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 368/KLGĐMT- PC09 ngày 12/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (có đặc điểm như biên bản quản lý).

[7] Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Văn T khai mua tại khu vực gần nghĩa trang xã V, thành phố T của một người nam giới, không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý [8] Đối với xe mô tô nhãn hiệu Lisohaka, biển số đăng ký 17H2 - 4977: Tài liệu điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Lưu Minh Q, sinh năm 1970, ngày 10/10/2020, anh Q cho T mượn xe, không biết việc T đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho anh Q là có căn cứ.

[9] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 50, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt Nguyễn Văn T 01( Một ) năm 06 ( sáu ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, và bị cáo không có tài sản, không có thu nhập.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,0811 gam Heroine được niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 368/KLGĐMT-PC09 ngày 12/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V ngày 24/11/2020).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2020/HSST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;