Bản án 80/2020/HSST ngày 23/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN 

BẢN ÁN 80/2020/HSST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2020/QĐXXST- HS ngày 01/7/2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN V - Sinh năm: 1989 - tại tỉnh Bình Thuận - Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 4, phường P, TP. C, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam;Tôn giáo: không ; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: lao động biển; Cha: ông Nguyễn Văn L (đã chết); Mẹ: bà Phạm Thị G, sinh năm 1951, nghề nghiệp: buôn bán; Vợ, con: không; Tiền án, tiền sự: không ; Nhân thân: Ngày 15/3/2012, bị Tòa án nhân dân TP. C xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 38/2012/HSST, chấp hành án tại Trại giam Thủ Đức – Bộ Công an, đến ngày 07/02/2016 chấp hành xong hình phạt tù quay trở về địa phương, đã được xóa án tích. Bị bắt tạm giữ từ ngày 03/01/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ - Công an TP. C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/01/2020, NGUYỄN VĂN V đã liên lạc và mua ma túy đá một thanh niên (không rõ nhân thân) với giá 2.800.000 đồng ma túy Methamphetamine (đá), tại khu vực gần hồ bơi Quốc Hùng (thuộc xã X, thành phố C);

Cũng trong ngày 01/01/2020 NGUYỄN VĂN V đi xe buýt vào khu vực Xóm Sình gần Nghĩa Trang thị xã L liên lạc mua ma túy là heroine với giá 9.200.000 đồng của một người phụ nữ tên G (không rõ nhân thân).

Theo V khai mục đích mua số ma túy trên là vừa để sử dụng cho việc nghiện ma túy của bản thân vừa bán lẻ lại cho người nghiện ma túy khác để thu lội nhuận;

V đã số lượng ma túy vừa mua của các đối tượng không rõ nhân thân nêu trên mang về nhà của mình tại khu phố 4, phường P, phân nhỏ số ma túy đá và bỏ vào 01 hộp giấy màu đen để ở giữa phòng ngủ và chia nhỏ số heroine mới mua được chia thành các tép nhỏ cất giấu tại bếp.

Để tiện cho việc mua bán ma túy V đã treo một cái còi vào một sợi dây và treo tại khu vực lỗ thông gió của bếp, khi có người mua ma túy chỉ cần cầm sợi dây lắc rung thì tiếng kêu từ trong lục lạc của chiếc còi sẽ báo hiệu cho V biết để đến bán ma túy, việc mua bán giao nhận tiền và ma túy cũng thông qua lỗ thông gió tại khu vực bếp.

Đến khoảng 06 giờ sáng ngày 03/01/2020, V bán cho một đối tượng (không rõ nhân thân) 01 tép heroine với giá 100.000 đồng.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, V lại tiếp tục bán cho Nguyễn Văn N (sinh năm: 1992, trú tại khu phố 15, phường M, TP. C) 01 tép heroin với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, N đang đi tìm chỗ sử dụng thì bị Đội CSĐT tội phạm về ma túy – Công an TP. C phát hiện và có thu giữ trên tay phải của N: 01 đoạn ống nhựa màu trắng, hàn kín, kích thước 1 x 1,5cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng, (Ký hiệu M7 khi giám định);

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Đội CSĐT tội phạm về ma túy – Công an TP. C tiến hành khám xét khẩn cấp nhà của V thì phát hiện V đang cùng với Nguyễn Văn B và Đào Thị T đang sử dụng trái phép chất ma túy. Tiếp tục khám xét phòng ngủ của V thì phát hiện và thu giữ các vật chứng sau:

- 08 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng, kích thước mỗi gói là (1,5 x 2)cm, thu giữ trong hộp giấy màu đen để trên nền giữa phòng ngủ của V (Ký hiệu M1 khi giám định);

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước khoảng (5 x 8,5)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong hộp giấy màu vàng để gần cửa phòng ngủ của V (Ký hiệu M2 khi giám định);

- 44 đoạn ống hút nhựa dùng để hút nước, được hàn kín 02 đầu, kích thước mỗi đoạn khoảng (1 x 1,5)cm, (gồm 24 đoạn màu đỏ và 20 đoạn màu trắng), bên trong mỗi đoạn đều chứa chất bột màu trắng, thu giữ trong vỏ o thuốc là hiệu JET để trên thềm cạnh nhà bếp nhà V (Ký hiệu M3 khi giám định);

- 04 đoạn ống hút nhựa dùng để hút nước, hàn kín 02 đầu màu vàng, kích thước lần lượt: 02 đoạn kích thước (1 x 2,5)cm, 02 đoạn kích thước (1 x 2)cm, bên trong mỗi đoạn đều chứa chất bột màu trắng, thu giữ trong hộp giấy màu đen xám để ở dưới bếp nhà V (Ký hiệu M4 khi giám định);

- 01 bịch nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước (7 x 12)cm, bên trong có chứa 95 đoạn ống nhựa dùng để hút nước, hàn kín 02 đầu,

kích thước mỗi đoạn khoảng (1 x2)cm (39 đoạn màu trắng, 56 đoạn màu đỏ) bên trong mỗi đoạn đều chứa chất bột màu trắng, thu giữ trong hộp giấy màu đen xám để phía dưới bếp nhà V (Ký hiệu M5 khi giám định);

- 08 đoạn ống nhựa dùng để hút nước, hàn kín 02 đầu, kích thước mỗi đoạn khoảng (1 x 1,5)cm (06 đoạn màu đỏ, 02 đoạn màu trắng) bên trong mỗi đoạn đều chứa chất bột màu trắng, thu giữ trong nồi gang màu bạc trong bếp nhà V (Ký hiệu M6 khi giám định);

- 01 đoạn dây nylon không màu dài khoảng 2,5 mét, ở giữa đoạn dây có gắn một chiếc còi nhựa màu đen, đoạn dây này được nối ở thanh gỗ trên trần bếp nhà V xuống dưới lỗ thông gió phía sau nhà bếp nhà V;

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm 01 chai nhựa, 01 ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng 01 đầu, 01 ống hút nước màu cam, thu giữ gần cửa phòng ngủ của V;

- 300.000 đồng (05 tờ mệnh giá 50.000đ, 01 tờ mệnh giá 20.000đ, 06 tờ mệnh giá 5.000đ) thu giữ trong túi áo đang mặc của V;

- 1.000.000 đồng (10 tờ mệnh giá 100.000 đồng) thu giữ trong hộp đựng nhang để trong phòng khách nhà V.

Tại Bản kết luận giám định số: 17/KLGĐ-PC09 ngày 10/01/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

+ Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,8027gam là Methamphetamine;

+ Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 2,6924gam là Methamphetamine;

+ Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 2,3336gam Heroin;

+ Mẫu M4 gửi giám định có khối lượng 0,4830gam Heroin;

+ Mẫu M5 gửi giám định có khối lượng 5,0519gam Heroin;

+ Mẫu M6 gửi giám định có khối lượng 0,4289gam Heroin;

+ Mẫu M7 gửi giám định có khối lượng 0,0411gam Heroin;

Tại bản cáo trạng số 75/CT- VKS-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo NGUYỄN VĂN V phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm p khoản 02 điều 251 Bộ luật hình sự;

Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa: Tại phiên tòa bị cáo khai khi thì nhận tàng trữ ma túy đá để sử dụng và tàng trữ ma túy heroin nhằm mục đích bán lẻ thu lợi nhuận, nhưng sau đó thì lại thay đổi lời khai xác định tàng trữ hai loại ma túy trên nhằm mục đích vừa bán vừa sử dụng, tuy nhiên bị cáo xác định nội dung cáo trạng truy tố không oan sai.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:Về tội danh và hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đã giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm p khoản 02 điều 251Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo NGUYỄN VĂN V mức án từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, đề nghị tịch thu sung công quỹ 100.000đ tiền bán ma túy, trả lại cho NGUYỄN VĂN V số tiền 1,2 triệu đồng không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo trong vụ án.

Lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo rất ân hận, mong Hội đồng xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh của bị cáo:

Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai người làm chứng, và kết quả giám định về vật chứng thu giữ là chất ma túy của Phòng kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh Bình Thuận, kết quả xét nghiệm chất ma túy bị cáo đã sử dụng và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 01/01/2020 NGUYỄN VĂN V đã mua ma túy là chất hê rôin và Methamphetamine của những đối tượng không rõ nhân thân mang về nhà tại khu phố 04 phường Phú Tài, thành phố C, phân ra từng lượng nhỏ cất giấu, nhẳm mục đích để bán và sử dụng Đến khoảng 13 giờ ngày 03/01/2020, NGUYỄN VĂN V đã bán cho Nguyễn Văn N 0,0411 gam Heroine là người nghiện mua để sử dụng, Nam chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang .

Từ lời khai của Nam cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp tại nhà của V và phát hiện thu giữ 4,4951gam Methamphetamine và 8,2974gam Heroine;

Ngoài ra ngày 02/01/2019 bị cáo V khai đã bán 01 tép heroin cho một đối tượng không rõ nhân thân, nhưng cơ quan điều tra chưa xác định được đối tượng đã mua ma túy của bị báo nên chưa truy cứu trách nhiệm Hình sự đối với lần bán ma túy nàycủa bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo lúc thì khai nhận tàng trữ ma túy đá chỉ để sử dụng và tàng trữ ma túy heroin nhằm mục đích bán lẻ thu lợi nhuận, nhưng sau đó thì lại thay đổi lời khai xác định tàng trữ hai loại ma túy trên nhằm mục đích vừa bán vừa sử dụng; Xét thấy NGUYỄN VĂN V là đối tượng có sử dụng ma túy, khi phát hiện hành vi phạm tội cơ quan điều tra đã xét nghiệm và phát hiện V dương tính với cả chất Heroin và Methamphetamine;

Đồng thời xét việc mua bán ma túy của V có sự chuẩn bị rất tinh vi, để tránh bị phát hiện V chia nhỏ số ma túy cất nhiều nơi trong bếp, trong phòng ngủ, nhưng không phân định rõ lượng ma túy nào để bán và lượng ma túy nào để sử dụng đồng thời treo cả chuông tự chế để người mua ma túy rung chuông báo tín hiệu khi cần mua ma túy.

Do vậy đủ cơ sở để kết luận hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy nêu trên của bị cáo là nhằm mục đích bán trái phép để thu lợi nhuận và có nguồn ma túy để sử dụng cho bản thân. Tổng khối lượng chất ma túy của V tàng trữ để vừa mua bán và sử dụng tính toán theo hướng dẫn tại Điều 4 Mục 1 phụ lục của Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ là 12,7925 gam, không phân định rõ lượng ma túy nào để bán và lượng ma túy nào để sử dụng.

Do vậy hành vi đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoạc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này”, được quy định tại điểm p, khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với bị cáo với tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn B và Đào Thị T bị bắt quả tang khi đang cùng sử dụng trái phép chất ma túy cùng V, chứng cứ điều tra xác định B và T không biết, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của V, do vậy cơ quan điều tra không xử lý hình sự mà đã chuyển hồ sơ để xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, là đúng quy định pháp luật.

Đối với người thanh niên (không rõ nhân thân) và người phụ nữ tên G là những người bán ma túy cho V do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Văn N, là người đã mua 0,0411 gam Heroine của bị can V với mục đích sử dụng, Nam là người chưa bị xử lý hành chính và chưa bị kết án về một trong các tội quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251, 252 nên hành vi không cấu thành tội phạm. Công an TP. C đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn N, là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét thấy bị cáo về nhân thân đã từng bị xử phạt tù có thời hạn về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn không tự rèn luyện hành vi phạm tội tàng trữ ma túy do bị cáo thực hiện trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý về chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay tệ nạn ma túy đang lây lan, gây ra những hậu quả nguy hại trong cộng đồng xã hội. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục riêng và phòng chống tội phạm ma túy nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo khai báo quanh co tại phiên tòa, nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, quy định tại điểm s, khoản 01, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo phạm tội nhưng không có tình tiết tăng nặng.

[5]Về biện pháp tư pháp :

Đối với chất ma túy thu giữ trong vụ án, và các Bo bì đóng gói chất ma túy còn lại sau khi giám định được niêm phong trong 07 phong bì số : 17/1, 17/2,

17/3,17/4,17/5,17/6,17/7 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng Thích và dấu của phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với một số vật chứng thu giữ của NGUYỄN VĂN V, gồm: 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế 01 đoạn dây gắn với cái còi nhựavà 01 ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn N, hiện không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với số tiền thu giữ của bị cáo trong đó có 100.000 đ là tiền do bán ma túy mà có do vậy sẽ bị tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định tại tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm b khoản 01 điều 47, Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Số tiền 1,2 triệu đồng đã thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội do vậy sẽ giao trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội Quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ vào quy định tại điểm p khoản 02 điều 251Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo NGUYỄN VĂN V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo NGUYỄN VĂN V 08 năm 06 tháng ( tám năm sáu tháng) tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 03/01/2020.

* Biện pháp tư pháp: điểm a khoản 01 điều 46, điểm b khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng hiện không có giá trị sử dụng và nhà nước cấm lưu hành gồm: chất ma túy thu giữ trong vụ án, và Bo bì đóng gói còn lại sau khi giám định được niêm phong trong 07 phong bì số: 17/1, 17/2,

17/3,17/4,17/5,17/6,17/7, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với số vật chứng thu giữ của NGUYỄN VĂN V, gồm: 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế 01 đoạn dây gắn với cái còi nhựavà 01 ống bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn N, hiện không có giá trị sử dụng.

- Tuyên tịch thu tịch thu sung công quỹ nhà nước 100.000đ thu giữ của NGUYỄN VĂN V vì là tiền do phạm tội bán ma túy mà có.

-Tuyên trả lại số tiền 1,2 triệu đồng đã thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội.

(Vật chứng được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 81 ngày 05/6/2020 và giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C ngày 02/6/2020)

* Về án phí: Tuyên buộc bị cáo NGUYỄN VĂN V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/7/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2020/HSST ngày 23/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;