Bản án 80/2019/HN-ST ngày 23/09/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 80/2019/HN-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 323/2019/TLST-HN ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 272/2019/QĐST-HN ngày 20 tháng 8 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 305A/2019/QĐST-HN ngày 03/9/2019 giữa:

* Nguyên đơn: Mai Như T, sinh 1987 (có yêu cầu xét xử vắng mặt)

Trú tại: Ấp A, thị trấn MC, huyện M, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Nguyễn Văn Đ, sinh 1982 (vắng mặt không có lý do)

Trú tại: Ấp A, thị trấn MC, huyện M, tỉnh Bến Tre.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng chính sách xã hội Phong giao dịch huyện M do bà Ngô Thị Thanh TA - Giám đốc phòng giao dịch là người đại diện. Bà Ngô Thị Thanh TA có văn bản ủy quyền cho bà Trương Thị Ngọc L - Phó giám đốc để tham gia tố tụng (bà L có yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại biên bản hòa giải, nguyên đơn chị T trình bày:

Vào năm 2009 do quen biết, nên tôi và anh Đ đã tiến tới hôn nhân, chúng tôi có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Mỏ Cày, huyện M. Sau khi cưới nhau chúng tôi sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Đ không chí thú làm ăn. Nay tôi xin ly hôn với Đ.

Quá trình sống chung chúng tôi có 02 con chung tên Nguyễn Mai Thành Đạt, sinh 28/3/2011 và Nguyễn Mai Như Ý, sinh 22/3/2013, con hiện đang sống với tôi, nay tôi xin nuôi cả hai cháu, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Tôi có vay Ngân hàng chính sách xã hội huyện M 40.000.000 Đ, số nợ này do cá nhân tôi đứng vay nên một mình tôi trả.

Bị đơn Nguyễn Văn Đ vắng mặt nhưng tại biên bản hòa giải ngày 08/8/2019 anh Đ có lời trình bày như sau: Thời gian kết hôn, điều kiện thành hôn như vợ trình bày là đúng, nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh thường xuyên uống rượu rồi chửi mắng vợ. Nay không đồng ý ly hôn, nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì con đồng ý để vợ nuôi anh không cấp dưỡng, tài sản chung tự thỏa thuận giải quyết, nợ Ngân hàng chính sách 40.000.000 Đ để vợ trả.

Đại diện Ngân hàng chính sách xã hội - phòng giao dịch M có yêu cầu xét xử vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 23/9/2019 bà Trương Thị Ngọc L có lời trình bày như sau: Ngân hàng có cho chị Mai Như T vay số tiền 40.000.000 Đ vào ngày 20/8/2019. Nay Ngân hàng tiếp tục cho chị T duy trì hợp đồng, không yêu cầu trả.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm cho rằng các giai đoạn tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện nhiệm vụ tuân thủ đúng các quy định pháp luật, người tham gia tố tụng nguyên đơn chấp hành đứng pháp luật, bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án mặt dù đã được tống đạt hợp lệ đầy đủ, nên đề nghị tiếp tục xét xử vụ án. Về nội dung vụ án đề nghị Áp dụng điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

Về con chung: Đề nghị giao cả hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét

Nợ chung: Nợ Ngân hàng chính sách xã hội 40.000.000 Đ chị T tự nguyện một mình nhận trả và Ngân hàng không yêu cầu giải quyết trong vụ án nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy.

* Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Về quyền khởi kiện: Chị T cho rằng quá trình sống chung giữa vợ chồng không còn hạnh phúc nên muốn ly hôn, do đó chị khởi kiện. Căn cứ điều 51 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 điều 68, điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự thì chị T có quyền khởi kiện.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Đối với yêu cầu của chị T là tranh chấp về việc ly hôn. Căn cứ khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và nơi cư trú của bị đơn thuộc thị trấn Mỏ Cày, huyện M. Căn cứ điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện M thụ lý giải quyết là phù hợp pháp luật.

[3] Bị đơn Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập xét xử hai lần hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đại diện Ngân hàng chính sách xã hội có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với tất cả các đương sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án:

[1] Chị T anh Đ kết hôn trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân, anh, chị có đăng ký kết hôn tại UBND cấp có thẩm quyền, do đó hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp, nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị sống có hạnh phúc trong thời gian dài có con chung lẽ ra anh, chị phải biết gìn giữ, nhưng từ những mâu thuẫn trong đời sống thường ngày mà anh, chị không tìm cách để khắc phục, từ đó vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng và anh, chị đã quyết định sống ly thân bỏ mặt cho nhau. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết chị T vẫn giữ nguyên quan điểm ly hôn, còn anh Đ thì không đồng ý ly hôn, quá trình xét xử Tòa án triệu tập anh Đ rất nhiều lần để hội đồng xét xử lắng nghe giải pháp anh đưa ra trong việc đoàn tụ với chị T như thế nào để làm căn cứ cho hội đồng xét xử xem xét nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy anh Đ không có thiện chí muốn trở về chung sống với chị T. Xét mâu thuẫn vợ chồng anh chị là có thật được các bên thừa nhận, nếu để anh chị tiếp tục chung sống thì mục đích hôn nhân sẽ không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp.

[2] Về con chung: Quá trình khởi kiện chị T xin được nuôi cả hai cháu Đạt và Ý, còn anh Đ cũng đồng ý để các con cho chị T nuôi, nguyện vọng của các cháu sau khi được hỏi ý kiến cũng muốn sống chung với chị T, nên chấp nhận yêu cầu của chị T là phù hợp, việc chị T không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện nên ghi nhận.

[3] Tài sản chung: Vợ chồng không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét

[4] Nợ chung: Quá trình khởi kiện vợ chồng chị T có nợ Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện M 40.000.000 Đ, chị T tự nguyện nhận trả một mình và Ngân hàng không yêu cầu giải quyết trong vụ án, nên không xem xét.

[5] Chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật nhưng do thuộc hộ gia đình cận nghèo nên được xem xét miễn nộp toàn bộ.

[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 51, 56, 81,82, 83, 84 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng khoản 5 điều 27, điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Như T. Chị Mai Như T được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Thành Đạt, sinh 28/3/2011 và Nguyễn Mai Như Ý, sinh 22/3/2013, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con

Sau khi ly hôn, cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với con chung, người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi có căn cứ một hoặc cả hai bên chị T, anh Đ được quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Vợ chồng không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

Nợ chung: Số tiền 40.000.000 Đ nợ Ngân hàng chính sách xã hội do Ngân hàng không yêu cầu giải quyết trong vụ án, nên không xem xét.

Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị T chịu 300.000 Đ nhưng do thuộc trường hợp hộ cận nghèo, nên được xem xét miễn nộp toàn bộ

Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2019/HN-ST ngày 23/09/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:80/2019/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;