TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 80/2017/HSST NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2017/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Lê Minh L - Sinh ngày 04 tháng 4 năm 2000 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: phường H, quận T, thành phố Đ; Nơi cư trú: phường T, quận T, thành phố Đ; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá 10/12; Con ông Lê Văn K (Sinh năm 1968) và bà Nguyễn Thị Hà T (Sinh năm 1973); Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị bắt quả tang ngày 18 tháng 4 năm 2017, tạm giữ ngày 19 tháng 4 năm 2017, tạm giam ngày 28 tháng 4 năm 2017, (có mặt).
* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Minh L: Bà Nguyễn Thị Hà T - Sinh năm 1973;
Nơi cư trú: phường T, quận T, thành phố Đ - là mẹ ruột của bị cáo, (có mặt).
* Người bào chữa cho bị cáo Lê Minh L: Ông Nguyễn Tấn B - Luật sư của Văn phòng luật sư Nguyễn Tấn, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng, (có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Phương T - Sinh năm 2000;
Nơi cư trú: phường S, thành phố H, tỉnh Q (Vắng mặt, không có lý do).
2. Anh Nguyễn Trần Tuấn H - Sinh năm 1997;
Nơi cư trú: phường T, quận T, thành phố Đ, (Vắng mặt, không có lý do).
3. Anh Hồ Kinh T1 - Sinh năm 1992;
Nơi cư trú: Tổ 31, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, (Vắng mặt, không có lý do).
4. Anh Lê Đức N - Sinh năm 1996;
Nơi cư trú: Tổ 53, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, (Vắng mặt, không có lý do).
* Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; chị Nguyễn Thị Phương T: Bà Phạm Thị Thu P- Sinh năm 1973; Nơi cư trú: phường S, thành phố H, tỉnh Q - là mẹ ruột của chị T, (Vắng mặt, không có lý do).
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê Minh L bị Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Tối ngày 17 tháng 04 năm 2017, Lê Minh L chở Nguyễn Thị Phương T (là bạn gái của L) đến bờ hồ Hàm Nghi để chơi. Đ n khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L liên hệ với một người thanh niên tên Bi (không rõ lai lịch) để mua một gói ma túy với giá 4.000.000 đồng. T không bi t L chở T đi mua ma túy. Sau khi mua ma túy xong, L chở T về nhà của Nguyễn Trần Tuấn H tại tổ 83, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây, L lấy ra một ít ma túy sử dụng cùng với H ở trong phòng riêng, còn T thì ở ngoài phòng khách không bi t L và H sử dụng ma túy. Số ma túy còn lại, L gói lại thành một gói cất giấu trong người. Đ n 17 giờ ngày 18 tháng 04 năm 2017, L chở T về phòng trọ mới thuê của T tại tổ 16, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu. Tại phòng trọ, L phân gói ma túy thành 05 gói (04 gói nhỏ và 01 gói lớn), trong đó: 01 gói L cất giấu vào trong túi quần, 04 gói còn lại L bỏ vào phía sau nắp ốp lưng điện thoại di động của L rồi cất giấu phía trên cửa ra vào của phòng trọ. Lúc này, T không có mặt tại phòng. Khoảng 19 giờ, Nguyễn Trần Tuấn H và Hồ Kinh T1 đến phòng trọ của L chơi. L lấy ra 01 gói ma túy mà L cất giấu trong túi quần để sử dụng cùng với H và T1.
Đến khoảng 22 giờ 25 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Lê Đức N (Sinh năm 1996; Nơi cư trú: Tổ 53, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu) tại phòng trọ thuộc tổ 16, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang vào ngày 18 tháng 4 năm 2017. Qua quá trình khám xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê phát hiện phía trên cửa phòng trọ có 01 điện thoại di động bên trong nắp ốp lưng điện thoại có 04 gói ni lông bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (ký hiệu G2). L khai nhận số ma túy này là của L đã cất giấu để sử dụng nên Công an quận Thanh Khê đã tiến hành bắt quả tang đối với Lê Minh L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
* Theo Kết luận giám định số 265/ GĐ-MT ngày 25 tháng 4 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng xác định: Chất tinh thể rắn màu trắng trong mẫu ký hiệu G2 gửi giám định có thành phần Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19.7.2013 của Chính phủ. Trọng lượng mẫu G2 là 3,576 gam.
* Vật chứng tạm giữ chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, gồm:
- Toàn bộ chất ma túy còn lại sau khi giám định.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xám loại A115, số Imei: 358115001481401.
- 01 (một) cái kéo bằng kim loại.
- 01 (một) bình nhựa bên trên có gắn một nỏ thủy tinh và một ống hút.
- 01 (một) bình ga mini bên trên có gắn một đầu khò.
Tại bản cáo trạng số 63/KSĐT ngày 14 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Lê Minh L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu bổ sung một phần nội dung Cáo trạng: Ngày 10 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã ra Quyết định trưng cầu Viện Khoa học hình sự-Phân viện tại thành phố Đà Nẵng giám định lại đối với mẫu vật ký hiệu G2.Theo K t luận giám định số 467/C54C (Đ4) ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Viện Khoa học hình sự-Phân viện tại thành phố Đà Nẵng xác định: Chất rắn màu trắng (dạng tinh thể) đựng trong 01 (một) gói ni lông ký hiệu G2 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 3,154gam là loại Methamphetamine. Đồng thời đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; Điều 91 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Lê Minh L từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy toàn bộ chất ma túy còn lại sau giám định; 01 cái kéo bằng kim loại; 01 bình nhựa bên trên có gắn một nỏ thủy tinh và một ống hút 01 bình ga mini bên trên có gắn một đầu khò; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xám.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Minh L-Luật sư Nguyễn Tấn B thống nhất tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình bị cáo có bề dày cách mạng và áp dụng quy định đối với người chưa thành niên phạm tội tại các điểm h và p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo. Đồng thời vận dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 91 của Bộ luật hình sự năm 2015 để cân nhắc mức hình phạt cho bị cáo L khi lượng hình.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên toà, bị cáo Lê Minh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cở sở kết luận:
Khoảng 22 giờ 25 phút ngày 18 tháng 4 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng khám xét khẩn cấp tại phòng trọ thuộc tổ 16, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng thì phát hiện bắt quả tang và thu giữ của Lê Minh L 04 gói ni lông bên trong chứa những hạt tinh thể màu trắng là ma túy có trọng lượng 3,576 gam, loại Methamphetamine.
Xét bị cáo Lê Minh L đã thực hiện việc mua và cất giấu bất hợp pháp tại phòng trọ thuộc tổ 16, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng 04 gói ma túy có trọng lượng 3,576 gam, loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng cho bản thân nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp được áp dụng quy định có lợi theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm đ n 05 năm tù, nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm đ n 07 năm tù. Hội đồng xét xử áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu và người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa.
Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Lê Minh L là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma tuý gây ảnh hưởng xấu đ n sức khỏe và sự phát triển nòi giống của dân tộc, ma tuý là tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, nhưng bản thân là người nghiện ma túy nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, vẫn cố ý mua về để sử dụng nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm.
Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Song, xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có nhiều người có công cách mạng. Hội đồng xét xử áp dụng các tình ti t giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do thời điểm phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử áp dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định tại các điều 69 và 74 Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời áp dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015, có lợi hơn so với quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 như ý ki n của đại diện Viện Kiểm sát, người bào chữa để xem xét quyết định hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xét, mặc dù bị cáo phạm tội lần đầu, nhưng là tội phạm nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử không áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này, như đề nghị của người bào chữa.
Trong vụ án, có đối tượng tên Bi đã bán ma túy cho Lê Minh L, đến nay chưa xác định được lai lịch của Bi nên Cơ quan Cảnh sát điều tả Công an quận Liên Chiểu tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau, là phù hợp.
Đối với Nguyễn Thị Phương T không biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Minh L và bản thân T cũng không sử dụng ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tả Công an quận Liên Chiểu không đề cập xử lý đối với T, là có căn cứ.
Đối với Nguyễn Trần Tuấn H và Hồ Kinh T1 là bạn của Lê Minh L nhưng cả H và T1 đều không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, do H và Thành có sử dụng ma túy cùng với L nên Công an quận Thanh Khê ra Quy t định xử phạt vi phạm hành chính đối với H và T1, là có cơ sở.
Đối với Lê Đức N và các vật chứng đã thu giữ của Nguyễn Thị Phương T, Nguyễn Trần Tuấn H, Hồ Kinh Thành tại Biên bản khám xét ngày 18 tháng 4 năm 2017 thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đang điều tra và xử lý trong một vụ án khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với toàn bộ chất ma túy còn lại sau khi giám định (toàn bộ tang vật trong phong bì niêm phong số 467/C54C (Đ4)) và các dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, 01 (một) bình nhựa bên trên có gắn một nỏ thủy tinh và một ống hút 01 (một) bình ga mini bên trên có gắn một đầu khò, Hội đồng xét xử cần án dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu huỷ;
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mastel màu xám loại A115, có số Imei: 358115001481401 được bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc mua ma túy, Hội đồng xét xử cần tuyên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) theo quy định tại của Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Minh L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; Điều 91 và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Lê Minh L 15 (Mười lăm tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 4 năm 2017.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy:
+ Toàn bộ mẫu vật hoàn trả có trong phong bì niêm phong theo bản kết luận giám định số 467-C54C(Đ4) ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại thành phố Đà Nẵng,
+ 01 cái kéo bằng kim loại;
+ 01 bình nhựa bên trên có gắn một nỏ thủy tinh và 01 ống hút;
+ 01 bình ga mini bên trên có gắn 01 đầu khò.
- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xám loại A115, số Imei: 358115001481401. (Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 8 năm 2017).
3. Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo L phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".
Bản án 80/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 80/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về