Bản án 794/2018/HNGĐ-ST ngày 20/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 794/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2551/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm 1963

Địa chỉ: 18 đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông R John Rolland, sinh năm 1958

Địa chỉ: 22A C St, M, N, ACT 2904, Australia.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28/02/2018 và bản tự khai ngày 04/5/2018, nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H trình bày:

Sau thời gian quen biết khoảng 05 năm thì bà và ông R John Rolland kết hôn với nhau, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 1965 quyển số 10 ngày 05/5/1997 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, tháng 7/1997 bà đi định cư ở New Zealand. Mặc dù thời gian đầu có khác biệt về văn hóa nhưng vợ chồng vẫn chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2010 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bà không còn tin tưởng tình cảm của ông R John Rolland nữa. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Sau đó, ông R John Rolland muốn đi làm việc ở các nước xa như Trung Đông, Mỹ, Anh… còn bà muốn về Việt Nam. Năm 2013, bà quyết định về Việt Nam sinh sống lâu dài. Vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, thỉnh thoảng vẫn gặp nhau để bàn hướng đi chung nhưng ông R John Rolland không muốn sống ở Việt Nam. Từ tháng 02/2017 cho đến nay, vợ chồng mạnh ai nấy sống không còn quan tâm và trách nhiệm gì đối với nhau. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục duy trì hôn nhân nên yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân với ông R John Rolland.

Về con chung: không có

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại Bản tự khai ngày 10/5/2018 của bị đơn ông R John Rolland được Đại sứ quán Việt Nam tại Australia chứng nhận chữ ký ngày 15/5/2018 có nội dung như sau:

Ông và bà Nguyễn Thanh H kết hôn với nhau vào năm 1997 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 1965, quyển số 10 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2012 thì mâu thuẫn bắt đầu phát sinh do bất đồng quan điểm không thể hòa giải. Nay bà Nguyễn Thanh H yêu cầu ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H, bị đơn ông R John Rolland đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông R John Rolland cư trú tại Australia; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tòa án không thu thập chứng cứ nên căn cứ khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Viện Kiểm sát không tham gia phiên tòa sơ thẩm.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H, bị đơn ông R John Rolland có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Nguyễn Thanh H và ông R John Rolland tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 1997, có làm thủ tục kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 1965, quyển số 10 ngày 05/5/1997 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp.

Theo lời khai của bà Nguyễn Thanh H thì sau khi đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc bình thường đến năm 2010 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, khác biệt về văn hóa, giữa vợ chồng thiếu sự tin tưởng nhau về tình cảm. Ông R John Rolland cũng xác nhận giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2012. Từ hơn một năm nay, vợ chồng không còn sự quan tâm và trách nhiệm lẫn nhau. Cả hai bên đều xác định không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân của đôi bên là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: không có

Về tài sản chung và nợ chung: bà Nguyễn Thanh H, ông R John Rolland khai không có.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh H;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thanh H được ly hôn ông R John Rolland.

Giấy chứng nhận kết hôn số 1965, quyển số 10 ngày 05/5/1997 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Nguyễn Thanh H nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà H đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0044035 ngày 22/3/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà H đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thanh H và bị đơn ông R John Rolland; bà Nguyễn Thanh H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông R John Rolland được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 794/2018/HNGĐ-ST ngày 20/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:794/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;