TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 79/2021/HSST NGÀY 05/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2021/TLST-HS ngày 12-3-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXXST-HS ngày 19-3-2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1976 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 14 K ô 19, phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh Đ và bà Nguyễn Thị S; có vợ Lương Thị H và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27-9-2010 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 18-7-2013 Công an phường Hạ Long, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20-6- 2014 Công an phường Hạ Long, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Ngày 27-11-2015 Công an phường Hạ Long, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Gây mất trật tự công cộng”. Ngày 24-11-2015 Công an phường Hạ Long, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 08-6-2016 Công an phường Hạ Long, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Gây mất trật tự khu dân cư”. Ngày 22-9-2016 Tòa án nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng; bị bắt tạm giữ ngày 21- 12-2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Anh Trịnh Hồng L và anh Nguyễn Thành L (Vắng mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 21-12-2020, tổ công tác Công an phường N, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường Đ-H, phường N, thành phố N phát hiện Nguyễn Xuân T đi xe đạp một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra thu giữ trên tay trái của T 01 gói nilông màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (T khai là gói ma túy đá). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường N, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của T xe đạp màu xanh đã cũ.
Bản kết luận giám định số: 1344/GĐKTHS ngày 25-12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân T gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,179 gam (Không phẩy một trăm bảy mươi chín gam).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ trên như sau: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 21-12-2020 T mượn xe đạp của chị Nguyễn Thị Hương (Chị gái T) đi một mình từ nhà đến khu vực dốc Cảng than gặp và mua của nam thanh niên (Không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy đá với giá 100.000 đồng cầm trên tay trái đi về tìm nơi sử dụng. Khi T đi về đến khu vực ngã ba đường Đ - H, phường N, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 88/CT-VKSTPNĐ ngày 12-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Xuân T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Xuân T phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định số 1344/GĐKTHS ngày 25-12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ căn cứ kết luận khoảng 13 giờ 15 phút ngày 21-12-2020, tại khu vực ngã ba đường Đ - H, phường N, thành phố N bị cáo đã có hành vi cất giấu trong người 01 gói nhỏ gói bằng nilong màu trắng chứa chất ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,179 gam mục đích để sử dụng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho nhu cầu của bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, có 01 lần bị Toà án đưa ra xét xử và 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, 05 lần bị xử phạt vi phạm hành chính (Đã xóa án). Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với chiếc xe đạp màu xanh tạm giữ của bị cáo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị H (Chị gái T), sinh năm 1973; trú tại: Số 14 K ô 19, phường H, thành phố N là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân T bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 21 tháng 12 năm 2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1344 (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 3 năm 2021 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân T được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 79/2021/HSST ngày 05/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 79/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về