TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 79/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại phòng xử án, trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 71/2020/TLST- HS, ngày 07 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, đối với bị cáo:
Trần Văn L, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1993, tại thị xã H. M tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: khối A, phường Q. X, thị xã H.M, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: lao động tự do. Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Trình độ văn hoá: 12/12. Con ông Trần Văn C (đã chết); con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971. Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020, có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan tới vụ án: anh Hồ Đình T, sinh năm 1993 Trú tại: xóm H. V, xã Q. B, huyện Q. L, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.
* Người làm chứng: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968 Trú tại: thôn L. H, xã Quỳnh L, thị xã H.M, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: vào khoảng 21 giờ, ngày 30/7/2020, tại khu vực Cầu Q. L, thị xã H.M, tỉnh Nghệ An, trong khi Trần Văn L đang có hành vi cất giấu dưới nắp bình xăng xe moto biển kiểm soát 37L2-344.01 0,31g (không phẩy ba mươi mốt gam) ma túy (loại Methammphetamine), với mục đích sử dụng, thì bị Công an xã Quỳnh L, thị xã H.M phát hiện, bắt quả tang.
Tại Kết luận giám định số 1111/KL-PC09(D2-MT) ngày 03/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn L gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn L có tổng khối lượng là 0,31g (không phẩy ba mươi mốt gam).
Cáo trạng số 74/CT-VKS-HM ngày 04/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố Trần Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị:
- Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Trần Văn L từ 12 đến 15 tháng tù.
* Về xử lý vật chứng vụ án: áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,13 gam Methamphetamine, là số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu vật giám định cùng phong bì đã niêm phong và 01 ống hút nhựa màu vàng.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu REDMI NOTE 8 màu xanh đã qua sử dụng, thuộc sở hữu của Trần Văn L, do không chứng minh được bị cáo L sử dụng vào việc phạm tội, nên cần trả lại bị cáo L.
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda MSX màu trắng, biển kiểm soát 37L2- 344.01, quá trình điều tra xác định được là tài sản của anh Hồ Đình T, sinh năm 1993 (trú tại xóm H.V, xã Q.B, huyện Q. L tỉnh Nghệ An) cho Trần Văn L mượn, không biết Trần Văn L sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan Điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hồ Đình T là đúng quy định.
* Về án phí: buộc bị cáo L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của cán bộ điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và các hành vi tố tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng quy định pháp luật về tố tụng hình sự.
[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trần Văn L khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H. M đã truy tố, thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố và buộc tội bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng, không oan sai.
Lời khai trên của Trần Văn L hoàn toàn phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, với vật chứng của vụ án thu giữ được của Trần Văn L là 0,31g (không phẩy ba mươi mốt gam) ma túy (loại Methamphetamine); phù hợp với lời khai và các bản cung có tại hồ sơ vụ án, với thời gian, địa điểm bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này, với kết luận giám định số 1111/KL-PC09(D2-MT) ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, chứng minh được hành vi nêu trên của Trần Văn L là hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố bị cáo L về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Khi thực hiện tội phạm, Trần Văn L có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng do muốn có ma túy sử dụng nên vẫn thực hiện tội phạm. Hành vi đó của Trần Văn L đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình làm băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, làm lan tràn tệ nạn ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, sức khỏe con người, nòi giống dân tộc, bị công luận lên án. Vì vậy cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo L để răn đe, phòng ngừa tội phạm và cảm hóa, giáo dục người phạm tội.
[4] Trần Văn L phạm tội không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bố đẻ Trần Văn L được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo L, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu cảm hóa, giáo dục người phạm tội cũng như răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung, tệ nạn sử dụng ma túy và các tội phạm về ma túy nói riêng đang diễn biến phức tạp tại địa bàn thị xã Hoàng Mai, cần xử phạt tù đối với Trần Văn L với mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa và cách ly bị cáo L ra khỏi xã hội trong thời gian chấp hành hình phạt tù là phù hợp.
Không xử phạt bổ sung đối với bị cáo L, do Trần Văn L là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, phạm tội nhưng không có thu lợi bất chính.
[6] Trần Văn L khai người có tên D rủ bị cáo L đi mua ma túy; người có tên H đưa ma túy trên cho bị cáo L, nhưng quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được danh tính của những người này, nên không có căn cứ xử lý.
[7] Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là 0,13 gam Methamphetamine cùng phong bì đã niêm phong và 01 ống hút nhựa màu vàng.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu REDMI NOTE 8 màu xanh, số Imeil 1: 866481049766459 và Imeil 2: 866481049966455, đã qua sử dụng, tại phiên tòa chứng minh được thuộc sở hữu của Trần Văn L, do không chứng minh được bị cáo L sử dụng vào việc phạm tội, nên cần trả lại bị cáo L.
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda MSX màu trắng, biển kiểm soát 37L2- 344.01 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Hồ Đình T, do không chứng minh được có liên quan tới việc phạm tội nên cơ quan Điều tra Công an thị xã H. M đã trả lại cho anh Hồ Đình T là đúng quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: buộc bị cáo L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn L phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Văn L 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (30/7/2020).
* Về vật chứng: áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,13 gam ma túy tổng hợp (Methamphetamine) cùng phong bì đã niêm phong và 01 ống hút nhựa màu vàng.
- Trả lại bị cáo L 01 chiếc điện thoại di động hiệu REDMI NOTE 8 màu xanh, số Imel 1: 866481049766459 và Imel 2: 866481049966455, đã qua sử dụng.
Các vật chứng trên đang do Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/9/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai.
* Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo L phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo L được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án là anh Hồ Đình T vắng mặt, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản sao bản án.
Bản án 79/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 79/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về