TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 79/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn B; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1980, tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản Ph B, xã Th N, huyện Đ B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Bố đẻ: Lò Văn Đ – Đã chết; Mẹ đẻ: Lò Thị S – sinh năm 1942; Vợ: Lò Thị T - Sinh năm 1983; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2005; Tiền sự: Không. Tiền án: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 13/6/2020 đến ngày 22/6/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lò Thị T, sinh năm 1983; Địa chỉ: Bản Ph B, xã Th N, huyện Đ B , tỉnh Đ(Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 10 phút, ngày 13/6/2020, tổ công tác Công an phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ đang làm nhiệm vụ tại khu vực Tổ dân phố 5, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, phát hiện Lò Văn B điều khiển xe mô tô, biển kiểm Sát 27B1-546.91, có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác yêu cầu dừng lại để kiểm tra, B khai đang cất giấu ma túy trong lỗ mũi bên phải của B. Tổ công tác đã đưa B đến Trung tâm y tế thành phố Điện Biên Phủ mời bác sỹ kiểm tra và gắp ra 01 gói ma túy gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong có các cục chất bột thể rắn màu trắng đục. B khai đó là Heroine, vào khoảng 16 giờ cùng ngày B điều khiển xe mô tô xuống khu vực C17, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên mua của một người đàn ông đứng ven đường hết 98.000 đồng, mục đích để sử dụng. B cất giấu gói ma túy vào mũi của mình, trên đường về thành phố tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Tại bản kêt luận giám định số 553/GĐ-PC09 ngày 21/6/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lò văn B gửi giám định là ma túy loại Heroin nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Có khối lượng 0,28 gam, sau khi giám định hoàn lại 0,25 gam Heroin.
Tại bản Cáo trạng số: 73/CT-VKSTPĐBP ngày 18/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố Bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy: 0,28 gam Heroin sau khi gửi đi giám định còn lại 0,25 gam Heroin, 01 mảnh giấy nilon.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Trong quá trình điều tra Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của Bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.
Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Bị cáo Lò Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 17 giờ 10 phút ngày 13 tháng 6 năm 2020, tại khu vực tổ dân phố 4, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên Bị cáo đã có hành vi cất giấu trái phép 0,28 gam Heroin, mục đích để sử dụng. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) ... Heroin, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.
[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên Bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, Bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, Bị cáo có bố được nhà nước tặng thưởng huy chương đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Bản Ph B, xã Th N, huyện Đ B, tỉnh Đ, bị cáo không đi học. Năm 2000 lấy vợ và làm ruộng Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, xét thấy Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, không có việc làm ổn định, gia định khó khăn nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.
[4] Về vật chứng vụ án:
Gồm 0,28 gam Heroin gửi đi giám định, sau khi giám định còn hoàn lại 0,25 gam Heroin, 01 mảnh giấy nilon màu trắng cần tịch thu để hủy theo quy định.
Đối với 01 chiếc xe máy Biển kiểm Sát 27B1 – 546.91 kèm theo chìa khóa và 01 đăng ký xe mang tên bà Lò Thị T và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lò Văn B. Chiếc xe là tài sản riêng của bà T cho bị cáo mượn, xe máy trên cũng là phương tiện duy nhất của gia đình có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên ngày 30/6/2020, bà T không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội Cơ quan Công an đã trả tài sản trên cho bà T và Bị cáo ủy quyền cho bà T nhận lại Chứng minh nhân dân. Xét thấy việc trả lại tài sản là có căn cứ, do vậy HĐXX chấp nhận.
[5] Các vấn đề khác:
Bị cáo khai đi mua ma túy của người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên , địa chỉ, nên không có cơ sở điều tra làm rõ. Do Bị cáo không biết tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.
[6] Vê hanh vi, quyêt đinh tô tung cua cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn B phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt bị cáo: 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (13/6/2020).
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy: Gồm 0,28 gam Heroin gửi đi giám định, sau khi giám định còn hoàn lại 0,25 gam Heroin, 01 mảnh giấy nilon màu trắng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).
- Chấp nhận biên bản trao trả tài sản cho bà Lò Thị T.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án buộc Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/9/2020). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo về phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 16/9/2020./.
Bản án 79/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 79/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về