Bản án 79/2020/HSST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 79/2020/HSST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn K; tên gọi khác: Không; sinh năm 1976 tại huyện MS, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản B, xã MC, huyện MS, tỉnh SL; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Viêt Nam; con ông Hoàng Văn Kh (đã chết) và bà Vì Thị C (sinh năm 1946); vợ con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: 01; nhân thân: Năm 2002 bị Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh SL xử phạt 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (đã đưọc xoá án tích); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2020 cho đến nay, có mặt.

2. Hoàng Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1990 tại huyện MS, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản B, xã MC, huyện MS, tỉnh SL; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quôc tịch: Viêt Nam; con ông Hoàng Văn Kh (đã chết) và bà Vì Thị C (sinh năm 1946); có vợ là Hoàng Thị H (đa ly hôn) và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: 01; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2020 cho đến nay, có mặt.

3. Cà Văn D; tên gọi khác: Không; sinh năm 1965 tại huyện TC, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản H, xã BL, huyện TC, tỉnh SL; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Viêt Nam; con ông Cà Văn K (đã chết) và bà Cà Thị L (đã chết); có vợ là Cà Thị B (sinh năm 1982) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2020 cho đến nay, có mặt.

4. Đèo Văn Q; tên gọi khác: Không; sinh năm 1971 tại huyện TC, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản BK, xã BL, huyện TC, tỉnh SL; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Viêt Nam; con ông Đèo Văn H (sinh năm 1936) và bà Đeo Thi D (sinh năm 1947); có vợ là Đèo Thị B (sinh năm 1972) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2020 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 26/3/2020, Tổ công tác Công an xã BL, huyện TC, tỉnh SL đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản BK, xã BL, huyện TC phát hiện, bắt quả tang Hoàng Văn K và Hoàng Văn N có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm:

Môt gói nilon màu hồng bên trong có chứa 09 viên nén màu hồng (K khai là ma túy tổng hợp)- K cất giữ trong túi áo khoác đằng trước bên trái đang mặc trên người;

Bốn gói giấy màu trắng, loại giấy có dòng kẻ in ngang màu xanh, bên trong mỗi gói đều chứa một ít chất bột cục màu trắng (K và N khai là Heroine)- K cất giữ trong túi quần đằng sau bên phải đang mặc trên người;

Một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu sơn đỏ, BKS:26B1-864.59, số khung: 049192, số máy: 1160494, xe đã qua sử dụng.

Quá trình mở rộng điều tra vụ án đến 15 giờ 30 phút ngày 27/3/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã thi hành Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Cà Văn D, quá trình bắt giữ không thu giữ đồ vật, tài sản gì, còn Đèo Văn Q bỏ trốn không có mặt tại địa phương. Ngày 21/4/2020 cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã ra Quyết định truy nã đối với Đèo Văn Q, đến ngày 22/4/2020 đã tiến hành bắt được Đèo Văn Q.

Hồi 08 giờ 00 phút, ngày 27/3/2020 tại phòng PC 09 Công an tỉnh SL, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TC đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định, kết quả xác định sô bột cục màu trắng có trong 04 gói giấy màu trắng có khối lượng 0,28 gam (không phẩy hai mươi tám gam) và 09 viên nén màu hồng gói trong nilon màu hồng có khối lượng 0,86 gam (không phẩy tám mươi sáu gam). Trích toàn bộ 0,28 gam chất bột trắng trên để giám định ký hiệu K1 làm mẫu gửi giám định. Trích toàn bộ 0,86 gam viên nén màu hồng trên để giám định ký hiệu K2 làm mẫu gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 552 ngày 31/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu K1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,28 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu K2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,86 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28 gam; loại Heroine và 0,86 gam; loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K 1 và chất bột màu hồng thuôc mẫu gửi giám định ký hiệu K2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng K1 = 0,23 gam, K2 = 0,76 gam”.

Quá trình điều tra các bị cáo Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q khai nhận:

Khoảng 10 giơ 30 phút, ngày 26/3/2020, K đang ở nhà tại bản Bông, xã MC, huyện MS thì có Đèo Văn Q và Cà Văn D đến nhà chơi. K rủ Q và D góp tiền để K đi mua ma túy về sử dụng, Q và D đồng ý. Mỗi người Q và D đưa cho K 100.000 đồng. K cầm tiền cuả Q Và D rồi vào buồng ngủ rủ em trai là Hoàng Văn N đi cùng mua ma túy, N đồng ý. N bảo K mượn xe máy mang BKS: 26B1-864.59 của D để N chơ K đi mua ma túy do K không biết đi xe máy. Sau đó, N điều khiển xe máy chở K đi đến nhà một người phụ nữ tên T nhà ở bản BK, xã BL, huyện TC để mua ma túy. Khi cả hai đến nhà T, N dừng xe đợi K ở bên ngoài, còn K đi vào nhà gặp và hỏi mua được của T 05 gói Heroine gói bằng giấy màu trắng với giá 250.000 đồng, trong đó tiền cuả D và Q mỗi người góp 100.000 đồng và 50.000 đồng là tiền của K. Sau đó, K cất ma túy vào túi quần dài đằng sau bên phải đang mặc rồi bảo N chở K về nhà. Khi hai người đi đến nương cà phê thuộc bản BK, xã BL, huyện TC thì cả 2 đi vào nương cà phê lấy ra 01 gói Heroine để cùng nhau sử dụng. Khi hai người vừa sử dụng ma túy xong thì bị Tổ công tác Công an xã BL phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hoàng Văn K khai nhận về nguồn gốc 09 viên nén màu hồng được thu giữ trên người bị cáo vào ngày 26/3/2020 là ma túy của bị cáo mua của một người đàn ông tên NH nhà ở xã HL, thành phố SL vào ngày 23/3/2020, bị cáo cất giữ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Các bị cáo Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q không biết về số ma túy trên.

Tại bản cáo trạng số: 80/CT-VKSTC ngày 09/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố Hoàng Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Hoàng Văn N, Cà Văn D và Đèo Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D và Đèo Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn K từ 30 đến 36 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N từ 18 đến 24 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Cà Văn D từ 13 đến 15 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Đèo Văn Q từ 18 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu hồng + 04 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 0,23 gam chất ma túy, loại Heroine + 0,76 gam chất ma túy, loại Methamphetamine.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D và Đèo Văn Q thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh SL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 26/3/2020 Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D và Đèo Văn Q đã góp tiền đi mua 0,28 gam chất ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do đo, các bị cáo Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi cất giữ trái phép 0,28 gam chất ma túy, loại Heroine. Đối với Hoàng Văn K đã có hành vi cất giữ trái phép 0,86 gam chất ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đo, bị cáo Hoàng Văn K phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng ma túy thu giữ là 0,28 gam Heroine và 0,86 gam Methamphetamine.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của các bị cáo phù hợp với:

Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 26/3/2020; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại ngày 27/3/2020; Kết luận giám định số 552 ngày 31/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh SL.

[3] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,28 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng của Hoàng Văn N, Cà Văn D và Đèo Văn Q đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi cất giữ trái phép 1,14 gam chất ma túy, bao gôm: 0,28 gam Heroine và 0,86 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng của Hoàng Văn K đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Hoàng Văn K giữ vai trò là người khởi xướng và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Hoàng Văn N sử dụng phương tiện đưa K đi mua ma túy, giữ vai trò đồng phạm giúp sức tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Đèo Văn Q giữ vai trò đồng phạm giúp sức tích cực, khi bị phát hiện về hành vi phạm tội, Q đã bỏ trốn khỏi địa phương, gây khó khăn cho việc truy bắt tội phạm. Cà Văn D góp tiền cùng Đèo Văn Q và Hoàng Văn K để K đi mua ma túy, Cà Văn D là đồng phạm giúp sức với vai trò thứ yếu. Do đó cần áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để cá thể hoá hành vi phạm tội cuả mỗi bị cáo khi quyết định hình phạt.

Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với môi bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo Hoàng Văn K có 01 tiền sự (chưa được xoá tiền sự).

Ngày 21/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh SL ra Quyết định số 96/2016/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thòi hạn 24 (hai mươi tư) tháng.

Bị cáo Hoàng Văn N có 01 tiền sự (chưa được xoá tiền sự). Ngày 21/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh SL ra Quyết định số 97/2016/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 (hai mươi tư) tháng.

Bị cáo Đèo Văn Q không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, khi bị phát hiện vê hành vi phạm tội, Q đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị bắt theo Quyết định truy nã của cơ quan CSĐT Công an huyện TC.

Bị cáo Cà Văn D có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Các bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: K và N khai mua của một người phụ nữ tên Thìn nhà ở bản BK, xã BL, huyện TC vào ngày 26/3/2020. Quá trình Điều tra xác định đối tượng tên là Lò Thị T, sinh năm 1979, trú tại bản BK, xã BL, huyện T C, tỉnh SL. Hiện nay, T không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết T đi đâu, làm gì, do đó, khi nào triệu tập được T đến làm việc và làm rõ hành vi của T trong vụ án thì sẽ có hình thức xử lý sau.

Đối với người đàn ông tên NH nhà ở xã HL, thành phố SL, tỉnh SL là người Hoàng Văn K khai đã bán ma túy cho K vào ngày 23/3/2020. Do K không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể cuả NH nên không có đủ căn cứ ểe Điều tra, xử lý.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng là 0,23 gam chất ma túy, loại Heroine va 0,76 gam chất ma túy, loại Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 mảnh nilon màu hồng+ 04 mảnh giấy trắng có dòng kẻ xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội và vật không có giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, BKS: 26B1-864.59 thu giữ cuả K và N vào ngày 26/3/2020. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe là tài sản chung cuả vợ chồng Cà Văn D, việc D sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, vợ bị cáo không biêt nên ngày 03/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện T C đã trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Cà Thị B là có căn cứ và đúng pháp luât, áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự đôi với bị cáo Hoàng Văn K.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự đôi với cac bị cáo: Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q.

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn K 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 26/3/2020).

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 26/3/2020).

Xử phạt bị cáo Cà Văn D 13 (mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/3/2020).

Xử phạt bị cáo Đèo Văn Q 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2020).

Tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

Một phong bì bằng giấy trắng niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh SL, mặt trước ghi: vật chứng vụ: Hoàng Văn K và Hoàng Văn N – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 26/3/2020. Tại xã BL, huyện TC, tỉnh SL. Tại: Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Gồm có: Các mẫu không sử dụng đến trong quá trình giám định thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1; K2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng: K1 = 0,23 gam; K2 = 0,76 gam, tại phần giáp lai của phong bì thư có dán giấy niêm phong của Công an tỉnh SL, số: 000338.

Một phong bì thư niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Hoàng Văn K cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 26/3/2020. Gồm: 01 mảnh nilon màu hồng + 04 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Mỗ bị cáo Hoàng Văn K, Hoàng Văn N, Cà Văn D, Đèo Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2020/HSST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;