Bản án 79/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Phước M, sinh năm 1984 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 237C/6 khu phố Ch Th, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Trương Phước Gi (đã chết) và bà Nguyễn Thị Phương Ng, sinh năm 1964; bị cáo có 03 em ruột, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1991; bị cáo có vợ tên là Vũ Thị Nh, sinh năm 1985; có 01 con ruột, sinh năm 2010; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 09/9/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 289/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 10/9/2017; Nhân thân: Ngày 31/8/2000, bị Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội Giết người theo Bản án số 2152/2000/HSPT, chấp hành xong hình phạt ngày 22/10/2004; bị bắt tạm giam ngày 27/9/2018 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Bà Lê Thị Th, sinh năm 1991; thường trú: Xóm B, xã Đ Th, huyện Đ S, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Khu phố Th L 2, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Đức Th1, sinh năm 1983; thường trú: Thôn B, xã Đ L, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: Số 145, khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt

2. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1983; thường trú: Thôn B, xã Đ L, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình, vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1997; thường trú: Số 17/16A, khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Kiến Ph, sinh năm 1980; thường trú: Số 83/2, ấp T L, xã B Đ, huyện H M, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 46 đường BH, khu phố T, phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

2. Ông Dương Minh H, sinh năm 1980; thường trú: Số 97/1B-42/16 đường chùa B, khu phố Đ T, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 27 tháng 9 năm 2018, Trương Phước M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu vàng đen, biển số 17B3-275.71 từ Trung tâm y tế thị xã D A, tỉnh Bình Dương đến đường số MT khu công nghiệp S Th 2, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy bà Lê Thị Th đang điều khiển xe mô tô biển số 61N7-5629 chạy cùng chiều phía trước, trong túi quần trước bên phải của bà Th có để một điện thoại di động hiệu Samsung A7, màu trắng trồi (ló) một phần ra ngoài. Lúc này, M điều khiển xe mô tô biển số 17B3-275.71 chạy theo sau, khi đến trước cổng kho K đường số MT, khu công nghiệp S Th 2, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, M điều khiển xe mô tô chạy vượt lên ép sát bên phải xe mô tô của bà Th rồi dùng tay trái giật điện thoại trong túi quần của bà Th rồi tăng ga bỏ chạy. Ngay lúc đó, bà Th truy hô “cướp, cướp” thì được ông Nguyễn Kiến Ph và ông Dương Minh H nghe thấy nên điều khiển xe mô tô chạy đuổi theo khoảng 100m thì M điều khiển xe mô tô va chạm với xe đạp của bà Nguyễn Thị Tr làm cả hai té ngã xuống đường nên ông Ph và ông H bắt giữ M cùng tang vật giao cho Công an đồn khu công nghiệp S Th lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng tạm giữ: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen, biển số 17B3-275.71 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu trắng.

Căn cứ vào biên bản Kết luận định giá số 291/BB.ĐG ngày 06/10/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu trắng có trị giá 3.600.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận định giá số 291/BB.ĐG ngày 06/10/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối với bà Nguyễn Thị Tr chỉ bị trầy xước nhẹ từ chối giám định thương tích, không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý.

Đối 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen, biển số 17B3-275.71, số máy JA31E0402737, số khung RLHJF3112EY224437 do Trương Phước M điều khiển làm phương tiện phạm tội, đây là tài sản của ông Nguyễn Đức Th1 cho M mượn xe làm phương tiện đi lại và không biết M sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe này cho ông Th1.

Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trương Phước M phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trương Phước M từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Đối 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu trắng đã thu hồi trả lại cho bị hại Lê Thị Th, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

- Bà Nguyễn Thị Tr yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích với số tiền 658.000 đồng là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bà Trang số tiền trên.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và trách nhiệm dân sự đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 27 tháng 9 năm 2018, Trương Phước M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu vàng đen, biển số 17B3-275.71 từ Trung tâm y tế thị xã D A, tỉnh Bình Dương đến đường số MT khu công nghiệp S Th 2, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy bà Lê Thị Th đang điều khiển xe mô tô biển số 61N7-5629 chạy cùng chiều phía trước, trong túi quần trước bên phải của bà Th có để một điện thoại di động hiệu Samsung A7, màu trắng trồi (ló) một phần ra ngoài. Lúc này, M điều khiển xe mô tô biển số 17B3-275.71 chạy theo sau, khi đến trước cổng kho K đường số MT, khu công nghiệp S Th 2, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, M điều khiển xe mô tô chạy vượt lên ép sát bên phải xe mô tô của bà Th rồi dùng tay trái giật điện thoại trong túi quần của bà Th rồi tăng ga bỏ chạy. Ngay lúc đó, bà Th truy hô “cướp, cướp” thì được ông Nguyễn Kiến Ph và ông Dương Minh H nghe thấy nên điều khiển xe mô tô chạy đuổi theo khoảng 100m thì M điều khiển xe mô tô va chạm với xe đạp của bà Nguyễn Thị Tr làm cả hai té ngã xuống đường nên ông Ph và ông H bắt giữ M cùng tang vật giao cho Công an đồn khu công nghiệp S Th lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ vào biên bản Kết luận định giá số 291/BB.ĐG ngày 06/10/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu trắng có trị giá 3.600.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000 đồng đến dưới 200.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;…” Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Trương Phước M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người chứng kiến tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở xác định: Hành vi sử dụng xe mô tô giật tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Cáo trạng số 72/CT–KSV ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Trương Phước M về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Phước M bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 289/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 10/9/2017, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội mới do cố ý thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, có tiền án về tội Giết người, đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên hiện nay bị có nhiễm HIV nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Đối với bà Nguyễn Thị Tr chỉ bị trầy xước nhẹ từ chối giám định thương tích, không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý và đối 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen, biển số 17B3-275.71, số máy JA31E0402737, số khung RLHJF3112EY224437 do Trương Phước M điều khiển làm phương tiện phạm tội, đây là tài sản của ông Nguyễn Đức Th1 cho bị cáo M mượn xe làm phương tiện đi lại và không biết M sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe này cho ông Th1 là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

- Đối 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7, màu trắng đã thu hồi trả lại cho bị hại Lê Thị Th, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Bà Nguyễn Thị Tr yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích với số tiền 658.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo Trương Phước M đồng ý bồi thường số tiền trên cho bà Tr nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo.

[9] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và trách nhiệm dân sự. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Phước M phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trương Phước M 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 27/9/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sựBuộc bị cáo Trương Phước M bồi thường cho bà Nguyễn Thị Tr 658.000 (sáu trăm năm mươi tám nghìn) đồng.

Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Trương Phước M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:79/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;