Bản án 79/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 79/2019/HS-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 01-10-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2019/QXXST-HS ngày 06-8-2019 đối với bị cáo:

Thạch H, sinh năm 1989; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp Trường T, xã Trường K, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm công; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật Giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; Con ông Thạch A và bà Thạch Thị S; Có vợ và 01 người con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo đang được tại ngoại. (có mặt) 

- Bị hại: Trần Thị T, sinh năm 1942 (chết)

Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Hà Thị L, sinh năm 1967 – Là con ruột của bà Trần Thị T; Nơi cư trú: Số 27 ấp Kinh M, xã An N, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thạch Thị H, sinh năm 1986;

Nơi cư trú: ấp Trường T, xã Trường K, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Người làm chứng:

1. Danh H, sinh năm 2003; Nơi cư trú: Hẻm 13 đường T, Khóm 3, Phường 5, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

2. Thạch Văn S, sinh ngày 03-11-2002; Nơi cư trú: Số 684/13A đường T, Khóm 3, Phường 5, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

Người giám hộ lời khai cho người làm chứng: Ông Lý Đ, sinh năm 1958; Nơi cư trú: Chùa S đường T, Khóm 3, Phường 5, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

- Người phiên dịch: Ông Sơn Si V; Nghề nghiệp: Biên dịch viên tiếng Khmer của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thạch H là người không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định. Vào sáng ngày 06-10-2018, Thạch H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu FUSIN biển số 83H5-2671 đi đến nhà cha mẹ ruột ở ấp Trường T, xã Trường K, huyện L để ăn tết Dolta của người dân tộc Khmer và có uống rượu, bia cùng một số người khác. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Thạch H nghỉ nhậu và điều khiển xe mô tô 83H5-2671 đi từ xã Trường Kh theo đường T theo hướng từ xã Trường K về thành phố S để về nhà. Khi đi đến đoạn phía trước nhà Số 555 đường T, Khóm 3, Phường 5, thành phố S thì H nhìn thấy phía trước khoảng hơn 10 mét có một số người đang đi bộ ngang qua đường hướng từ lề bên trái sang lề bên phải theo chiều đi của H gồm: Thạch Văn S, Danh H đi trước và bà Trần Thị T đi sau cùng. Thấy có người đi bộ qua đường, H không giảm tốc độ hoặc dừng xe để nhường đường cho những người này mà điều khiển xe vòng qua bên trái để tránh nhưng không tránh kịp bà Trần Thị T là người đi qua đường sau cùng, dẫn đến va chạm phần đầu xe bên trái của xe mô tô 83H5-2671 với phần cơ thể phía trước bên phải của bà T khi bà T vừa đi qua đến phần đường bên phải, cách vạch kẽ giữa đường khoảng 01m, làm bà Tiến ngã xuống nằm ở giữa đường còn H và xe mô tô cũng bị ngã xuống đường. Sau tai nạn bà T được người thân đưa đi Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng cấp cứu nhưng đã tử vong sau đó, còn Hoàng bị xây xát nhẹ không nhập viện điều trị.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 05/PY.PC09 ngày 28-02-2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Trên cơ thể tử thi bà Trần Thị T có 06 vết thương; bầm tụ máu dưới da đầu vùng trán phải; hộp sọ bị nứt, vỡ lún phần trán phải; bầm tụ máu bán cầu đại não bên phải. Nguyên nhân chết là do chấn thương sọ não.

Tại Biên bản thử nghiệm nồng độ cồn trong hơi thở lập lúc 19 giờ 35 phút ngày 06-10-2018 tại Công an Phường 5, thành phố S, thể hiện: Thạch H có nồng độ cồn trong hơi thở qua kiểm tra là 1,004 miligam/1 lít khí thở (vượt gấp 04 lần mức cho phép là 0,25 miligam/1 lít khí thở).

Tại Biên bản xét nghiệm chất ma túy lập lúc 21 giờ 45 phút ngày 06-10- 2018 tại Công an Phường 5, thành phố S thể hiện: Mẫu nước tiểu của Thạch H qua kiểm tra bằng que xét nghiệm chất ma túy cho kết quả dương tính với ma túy loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 375/C09B ngày 05-3-2019 của Phân viện Khoa học Hình sự thuộc Bộ Công An tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Xe mô tô 83H5-2671 khi va chạm không mở đèn chiếu sáng, không giảm tốc độ và không thay đổi hướng di chuyển nhằm né tránh gây tai nạn. Không xác định được tốc độ của xe mô tô khi va chạm. Tư thế nạn nhân Tiến khi va chạm: nạn nhân đang dừng lại, quay nhìn về phía bên phải hướng xe mô tô đang chạy đến. Xác định vị trí va chạm trên cơ thể nạn nhân là phía trước mặt, bên phải.

Tại Cáo trạng số 74/CT-VKS.TPST ngày 14-8-2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Thạch H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b Khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Thạch H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, b Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Thạch Thị Hoa không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xử lý.

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Ghi nhận sự tự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo với người đại diện hợp pháp cho gia đình bị hại như sau:

Bị cáo đồng ý bồi thường cho người đại diện hợp pháp cho gia đình bị hại là bà Hà Thị L số tiền là 46.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 47; điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thạch Thị H: 01 xe mô tô biển số 83H5-2671, nhãn hiệu FUSIN, màu sơn đen đã qua sử dụng và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 83H5-2671 mang tên Sơn Rông.

Ti phiên tòa, người đại diện hợp pháp cho bị hại là bà Hà Thị L thừa nhận gia đình yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 50.000.000 đồng và bị cáo đã bồi thường cho gia đình được số tiền là 4.000.000 đồng. Nay yêu cầu bị cáo bồi thường sồ tiền còn lại là 46.000.000 đồng. Về hình phạt yêu cầu xử phạt bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Thạch Thị H thừa nhận xe mô tô biển số 83H5-2671 là của bà việc bị cáo lấy sử dụng gây tai nạn thì bà không biết và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngoài ra, bị cáo thừa nhận đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 4.000.000 đồng và đồng ý bồi thường số tiền còn lại là 46.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa, vắng mặt những người làm chứng là Danh H, Thạch Văn S và người giám hộ cho người làm chứng Lý Đ. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng và việc vắng mặt cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với những người nêu trên.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Thạch H đã khai nhận:

Vào khoảng 18 giờ ngày 06-10-2018, sau khi đã uống rượu, bia tại nhà của cha mẹ ruột ở ấp Trường T, xã Trường K, huyện L thì bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 83H5-2671 đi từ xã Trường K theo đường T để về thành phố S. Khi đến trước nhà Số 555 đường T, Khóm 3, Phường 5, thành phố S thì bị cáo nhìn thấy phía trước khoảng hơn 10m có từ 02 đến 03 người đang đi bộ qua đường theo hướng từ trái sang phải. Do chủ quan nên bị cáo không giảm tốc độ để nhường đường cho những người này mà điều khiển xe vòng qua bên trái để tránh nhưng không kịp tránh người đi qua đường sau cùng là bà Trần Thị T dẫn đến va chạm vào phần đầu xe bên trái của xe mô tô 83H5-2671 làm cho bà Tiến ngã xuống đường và được đưa vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng cấp cứu nhưng đã tử vong.

[4]. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Đi với bị cáo Thạch H không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định nhưng lại điều khiển xe mô tô biển số 83H5-2671 lưu thông trên đường trong tình trạng đã sử dụng rượu, bia mà trong máu có nồng độ cồn là 1,004 miligam/1 lít khí thở vượt quá 04 lần so với mức quy định, dương tính với ma túy nhưng không giảm tốc độ để nhường đường cho người đi bộ qua đường nhằm đảm bảo an toàn dẫn đến gây tai nạn làm cho bà Trần Thị T tử vong do chấn thương sọ não. Hành vi của bị cáo đã vi phạm Khoản 7, Khoản 8, Khoản 9 Điều 8; Khoản 4 Điều 11 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Thạch H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b Khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 4.000.000 đồng. Bị cáo là người dân tộc Khmer. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Thạch Thị Hoa không yêu cầu bồi bị cáo thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tất cả các khoản chi phí gồm tiền tổn thất tinh thần và tiền mai táng phí với tổng số tiền là 50.000.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền mà bị cáo đã bồi thường trước là 4.000.000 đồng nên yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại là 46.000.000 đồng và bị cáo cũng đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại.

Xét sự tự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo với người đại diện hợp pháp cho bị hại là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại là bị cáo đồng ý bồi thường cho người đại diện hợp pháp gia đình bị hại số tiền là 46.000.000 đồng.

[7]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đi với xe mô tô biển số 83H5-2671 và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô là của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thạch Thị H không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bà H.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, do bị cáo với người đại diện hợp pháp cho bị hại thỏa thuận được với nhau về bồi thường thiệt hại trước phiên tòa nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức nghiêm khắc như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm a, b Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a Khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuy ên bố : Bị cáo Thạch H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

” 1. Xử phạt bị cáo Thạch H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn thi hành án hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo hoặc ngày bị cáo cáo tự nguyện thi hành án hình phạt tù.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Thạch Thị H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Ghi nhận sự tự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo với người đại diện hợp pháp cho bị hại như sau: Bị cáo Thạch H đồng ý bồi thường cho người đại diện hợp pháp cho gia đình bị hại là bà Hà Thị L số tiền là 46.000.000 đồng.

3. Về xử lý vật chứng:

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thạch Thị H: 01 xe mô tô biển số 83H5-2671, nhãn hiệu FUSIN, màu sơn đen đã qua sử dụng và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 83H5-2671 mang tên Sơn R.

4. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:79/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;