Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 79/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

 Trong ngày 09 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 110/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/4/2019 về tranh chấp: “Xin ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/7/2019 và quyết đinh hoãn phiên tòa số 51/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1994. (Xin vắng mặt) - Địa chỉ: Số 68, dãy D, khu phố A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Ông Phạm Trung N, sinh năm 1996. (Vắng mặt) - Địa chỉ: Số 68, dãy D, khu phố A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy L trình bày:

Tôi và ông Phạm Trung N cưới nhau vào năm 2017 có đăng ký kết hôn tại UBND phường 1, thị xã Cai Lậy. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không được, nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: cho tôi được ly hôn với ông Phạm Trung N.

- Về con chung: có 01 con chung tên Phạm Hoàng Thái C, sinh ngày 30/9/2017, sau khi ly hôn bà L yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Phạm Trung N:

Ông Phạm Trung N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa g iải, và triệu tập xét xử nhưng ông N vẫn không đến Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án cũng như không trình bày ý kiến bằng văn bản về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, nuôi con của bà L.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng tuân theo đúng pháp luật tố tụng.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc bà L và ông N phát sinh mâu thuẫn trong thời gian dài nhưng không thể hàn gắn được, nên về hôn nhân đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L. Về con chung có 01 con chung tên Phạm Hoàng Thái C, sinh ngày 30/9/2017, bà L có yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, xét yêu cầu của bà L là phù hợp, bỡi ông N không đến Tòa cũng không trình bày nguyện vọng muốn nuôi dưỡng con chung sau khi vợ chồng ly hôn, nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà L về con chung, giao con chung là cháu C cho bà L nuôi dưỡng. Tài sản chung, nợ chung bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đây là quan hệ tranh chấp “Xin ly hôn” theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bà Nguyễn Thị Thùy L và ông Phạm Trung N xác lập quan hệ hôn nhân do quen biết tìm hiểu, có đăng ký kết hôn và được UBND phường B, thị xã C cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/4/2017 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm trong cuộc sống. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà L và ông N đã xảy ra thời gian dài nhưng vợ chồng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy L.

Đối với ông Phạm Trung N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, và triệu tập xét xử nhưng ông N vẫn không đến Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án cũng như không trình bày ý kiến bằng văn bản về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, nuôi con của bà L. HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Phạm Trung N.

Bà Nguyễn Thị Thùy L có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX quyết định xét xử vắng mặt bà L.

Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Hoàng Thái C, sinh ngày 30/9/2017, sau khi ly hôn bà L yêu cầu được quyền nuôi con, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của bà L là phù hợp, bởi cháu C hiện đang sống cùng bà L. Mặc khác, ông N không đến Tòa theo giấy triệu tập cũng không trình bày bằng văn bản nguyện vọng nuôi dưỡng con chung sau khi vợ chồng ly hôn, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà L về con chung, giao con chung là cháu C cho bà L nuôi dưỡng, ông N không phải cấp dưỡng nuôi con do bà L không có yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: bà L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[3] Bà Nguyễn Thị Thùy L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử :

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy L. Cho bà Nguyễn Thị Thùy L được ly hôn với ông Phạm Trung N.

2/ Về con chung:

+ Giao con chung là cháu Phạm Hoàng Thái C, sinh ngày 30/9/2017 cho bà Nguyễn Thị Thùy L chăm sóc nuôi dưỡng, ông Phạm Trung N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Phạm Trung N có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

4/ Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thùy L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, bà L đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002210 ngày 29/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, cấn trừ nên xem như bà L đã nộp xong án phí hôn nhân sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Thùy L và ông Phạm Trung N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:79/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;