TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 79/2018/HS-ST NGÀY 13/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý 72/2018/TLST-HS ngày 16/05/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 76/2018/QĐXXST-HS ngày30/05/2018 đối với bị cáo:
Trương Văn T, sinh năm 1986 tại Hà Nam; Nơi ĐKNKTT: Tổ 13, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; Nơi cư trú: Tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1998 và 01 con sinh năm 2009; tiền án: Ngày 25/6/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 07 năm tù về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 27/01/2017; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 08/03/2018, tạm giam từ ngày 14/03/2018 đến nay; có mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1960.
2. Anh Lý Đức Thành N, sinh năm 1994.
Đều trú tại: Tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 08/03/2018, Trương Văn T thuê xe Taxi đi từ nhà trọ tại tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý đến Nhà văn hóa trung tâm tỉnh Hà Nam, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, T gặp một người đàn ông (không rõnhân thân, lai lịch) và hỏi người này:“Có hàng bán không”, khi người đó bảo:“Có” thì T lấy ra 500.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền rồi đưa cho T 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 01 ống coóng bằng thủy tinh. T cầm gói ma túy và ống coóng thủy tinh ở tay rồi đi Taxi về gần đến phòng trọ, sau đó xuống xe đi bộ vào ngõ 323 đường L thuộc tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý thì ngay lúc đó bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Tại chỗ, T tự nguyện giao nộp cho lực lượng công an túi nilon màu trắng và ống coóng thủy tinh đang cầm trên tay đồng thời khai nhận đó là ma túy, vừa mua để sử dụng.
Vật chứng, tài sản thu giữ của Trương Văn T gồm: 01túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, 01 ống coóng bằng thủy tinh và 01 máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Lenovo.
Tại bản Kết luận giám định số 47/PC54-MT ngày 10/03/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,429 gam loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.
Bản cáo trạng số 83/CT-VKS- PL ngày 15/05/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Trương Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trương Văn T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt Trương Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/03/2018, tại khu vực tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Trương Văn T bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,429 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truytố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy có nhân thân xấu, đã có một tiền án về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích;
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” do phạm tội khi chưa được xóa án tích.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có thời gian tham gian quân đội bảo vệ tổ quốc nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.
[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:
Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân vừa chấp hành xong hình phạt tù, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.
[6] Đối với người bán trái phép ma túy cho Trương Văn T tại khu vực Nhà văn hóa trung tâm tỉnh Hà Nam, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý.
[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:
+ Đối với chiếc máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Lenovo, cơ quan điều tra đã làm rõ đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên sẽ xem xét trả lại cho bị cáo.
+ Đối với toàn bộ số số Methamphetamine cùng bao gói và 01 chiếc coóng thủy tinh sẽ tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tuyên bố bị cáo Trương Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/03/2018.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Trả lại cho bị cáo Trương Văn T 01 (một) máy tính bảng Ipad màn hình cảm ứng, vỏ màu đen nhãn hiệu Lenovo có số Imeil: 866147029413764.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 47/PC54-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) coóng thủy tinh dài khoảng 10cm một đầu phình to hình tròn.
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 16/05/2018.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trương Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 79/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 79/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về