Bản án 78/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 78/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2021/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 66/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thanh T ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố H , thị trấn M , huyện T , thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Chung cư CT5, xã T , huyện T , thành phố Hà Nội; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Đức T ; địa chỉ: Tổ dân phố H , thị trấn M , huyện T , thành phố Hải Phòng. Hiện đang chấp hành án tại Đội 28, phân trại số 6, Trại giam T ; địa chỉ: Xã X , huyện N , tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp tại Tòa án ngày 22 tháng 01 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Thanh T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M , huyện T n, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 23 ngày 11 tháng 4 năm 2014. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung nên dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Anh Thọ vi phạm pháp luật bị tuyên án phạt tù và phải đi chấp hành án phạt tù nên mâu thuẫn vợ chồng càng trở nên căng thẳng. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh Lê Đức T .

- Về con chung: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T có một con chung tên Lê Đức A , sinh ngày 20 tháng 10 năm 2014. Khi ly hôn, chị T xin được trực tiếp nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung do chị T và anh T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T không có tài sản chung, không có vay nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Đức T hiện đang chấp hành án phạt tù tại phân trại số 6, trại giam T - Cục C10- Bộ Công an. Anh T đã gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến về việc chị T xin ly hôn. Tại bản tự khai ngày 05 tháng 3 năm 2021 bị đơn anh Lê Đức T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh Lê Đức T thừa nhận lời khai của chị Phạm Thị Thanh T về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, thời gian và nguyên nhân mâu thuẫn là đúng. Anh đồng ý ly hôn với chị T .

Về con chung: Anh T và chị T có một con chung tên Lê Đức A , sinh ngày 20 tháng 10 năm 2014. Khi ly hôn, anh T để chị T được trực tiếp nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung do anh T đang chấp hành án nên không thể cấp dưỡng được.

- Về tài sản chung: Anh Lê Đức T và chị Phạm Thị Thanh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T . Giao con chung tên Lê Đức A , sinh ngày 20 tháng 10 năm 2014 cho chị Phạm Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị Phạm Thị Thanh T không yêu cầu nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị Phạm Thị Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tài liệu xác minh thể hiện chị T và anh T có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh T vi phạm pháp luật, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng khó có khả năng đoàn tụ. Con chung hiện nay đang sống cùng chị T .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Lê Đức T cư trú tại thị trấn M , huyện T , thành phố Hải Phòng. Hiện nay anh T đang chấp hành án phạt tù tại huyện N , tỉnh Thanh Hóa, vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T .

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 23 ngày 11 tháng 4 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M , huyện T , thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Phạm Thị Thanh T được ly hôn anh Lê Đức T ọ.

[3]. Về con chung: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T có 01 con chung tên Lê Đức A , sinh ngày 20 tháng 10 năm 2014. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung vì hiện nay con chung đang ở với chị T . Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Chị Phạm Thị Thanh T là người trực tiếp nuôi con chung từ khi chị T , anh T sống ly thân đến nay; mặt khác, anh T hiện đang chấp hành án phạt tù nên căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giữ nguyên tình trạng nuôi con chung như hiện nay, giao con chung tên Lê Đức A cho chị Phạm Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh T tự thỏa thuận giao nhận với nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4]. Về tài sản chung: Chị T và anh T trình bày không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Thanh T được ly hôn anh Lê Đức T .

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Đức A , sinh ngày 20 tháng 10 năm 2014 cho chị Phạm Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015736 ngày 28 tháng 01 năm 2021của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Chị Phạm Thị Thanh T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Lê Đức T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 78/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:78/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;