TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Hà Minh T; tên gọi khác: Không, sinh ngày 16 tháng 4 năm 2001, tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Vy H và bà Hoàng Thị Đ; tiền sự, tiền án: Không có. Nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21-8-2020 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.
Bị hại: Chị Lộc Thị T, sinh năm 1994; trú tại: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Hà Vy H, sinh năm 1971; trú tại: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
2. Anh Lộc Văn K, sinh năm 1971; trú tại: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
Người làm chứng:
Bà Đàm Thị X, sinh năm 1972. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 ngày 31-7-2020, Hà Minh T đi bộ đến phòng làm việc của chị Lộc Thị T, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn (lúc này đã hết giờ làm việc cửa phòng khóa). Hà Minh T quan sát tìm cách mở khóa nhằm mục đích lấy trộm tài sản, khi đang quan sát thì gặp bà Đàm Thị X. Đến khoảng 07 giờ ngày 02-8-2020 (ngày chủ nhật) Hà Minh T đến cửa phòng của chị Lộc Thị T để quan sát một lần nữa, đến khoảng 15 giờ cùng ngày Hà Minh T lấy cưa sắt, kìm sắt từ nhà lên phòng làm việc của chị Lộc Thị T tại Ủy ban nhân dân xã T để mở khóa, Hà Minh T lấy cưa sắt cưa đứt then cài cửa, đi vào bên trong phòng, quan sát thấy chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa tủ gỗ, Hà Minh T mở tủ lấy 11.400.000 (mười một triệu bốn trăm nghìn) đồng và 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lộc Văn K. Sau khi lấy được tài sản Hà Minh T ném cưa sắt và kìm sắt xuống chân đồi và đi ra thị trấn N, huyện V bắt xe xuống huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Hà Minh T sử dụng số tiền trộm cắp được, mua ma túy sử dụng và tiêu sài mục đích cá nhân hết, còn 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Hà Minh T mang đi cầm ở một quán nước tại huyện T, tỉnh Bắc Ninh được 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, Hà Minh T đã mua ma túy sử dụng. Đến ngày 19-8-2020 Hà Minh T đi về nhà ở tại xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
Sau khi phát hiện cửa phòng bị phá khóa và bị mất số tiền lương và tiền quỹ Công đoàn chị Lộc Thị T đã viết đơn trình báo, Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành điều tra xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ. Thu giữ tài liệu, đồ vật tạm giữ gồm: 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp đã cũ; 01 then chốt cửa bằng sắt bị đứt, gãy; 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lộc Văn K. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng đã khởi tố vụ án, ngày 21-8- 2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng ra lệnh bắt tạm giam đối với Hà Minh T, không thu giữ đồ vật tài sản gì.
Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 03 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hà Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Hà Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Hà Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo Hà Minh T mức án từ 09 năm đến 12 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về xử lý vật chứng trả lại cho ông Lộc Văn K 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tịch thu tiêu hủy 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt tiệp, 01 then chốt cửa bằng sắt bị đứt, gãy. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi cấu thành tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa, bị cáo Hà Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, có căn cứ để xác định: Khoảng 07 giờ ngày 02-8-2020 (ngày chủ nhật) Hà Minh T đến cửa phòng của chị Lộc Thị T để quan sát nhằm mục đích trộm cắp tài sản, đến khoảng 15 giờ cùng ngày Hà Minh T đã có chuẩn bị cưa sắt, kìm sắt từ nhà lên phòng làm việc của chị Lộc Thị T, tại Ủy ban nhân dân xã T để cưa khóa, Hà Minh T dùng cưa sắt, cưa đứt then cài cửa, lén lút đi vào bên trong phòng, quan sát thấy chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa tủ gỗ, Hà Minh T mở tủ lấy 11.400.000 (mười một triệu bốn trăm nghìn) đồng và 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lộc Văn K. Do đó, có căn cứ để khẳng định, bị cáo đã có hành vi “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Hà Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản người khác là vi phạm pháp luật, nhưng muốn có tiền để mua ma túy sử dụng và tiêu sài cá nhân, nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật. Do đó, cần có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với các đối tượng khác. Để có mức án thỏa đáng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không tài sản gì (thể hiện tại biên bản xác minh ngày 01-.9-2020). Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Đối với ông Hà Vy H, là bố đẻ của bị cáo đi chuộc lại 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng, do bị cáo lấy trộm mang đi cầm cố, nhưng ông Hà Vy H không biết bị cáo trộm cắp, nên không liên quan.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại chị Lộc Thị T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 10.000.000 đồng tiền lương và 1.400.000 đồng tiền quỹ Công đoàn cơ sở xã T, tổng là 11.400.000 đồng. Bị cáo Hà Minh T cũng nhất trí bồi thường, xét thấy đây là sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và bị hại, nên cần được chấp nhận. Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm giữa bị cáo với bị hại, cụ thể: Bị cáo Hà Minh T phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho chị Lộc Thị T 11.400.000 (mười một triệu bốn trăm nghìn) đồng.
[8] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lộc Văn K, là bố đẻ bị hại chị Lộc Thị T yêu cầu được trả lại 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[9] Quá trình điều tra Ủy ban nhân dân xã T bị thiệt hại hỏng then chốt cửa và ổ khóa Việt Tiệp, nhưng không yêu cầu bồi thường. Chị Lộc Thị T đã tự nguyện khắc phục hậu quả 1.400.000 đồng tiền quỹ công đoàn mà chị Thảo quản lý bị mất trộm, Công đoàn cơ sở xã T không yêu cầu bồi thường. Nên không xem xét giải quyết nữa.
[10] Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp đã cũ;
01 then chốt cửa bằng sắt bị đứt, gãy, là tang vật vụ án, không có giá trị sử dụng, tịch thu, tiêu hủy; đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là tài sản của ông Lộc Văn K, nên trả lại cho ông Lộc Văn K.
[11] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị mức án đối với bị cáo, xử lý vật chứng, là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự, dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 23, Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự Căn cứ Điều 584, Điều 589 và Điều 357 của Bộ luật Dân sự.
Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 23, Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Minh T phạm tội: Trộm cắp tài sản.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Minh T 12 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 21 tháng 8 năm 2020.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm giữa bị cáo với bị hại, cụ thể như sau: Bị cáo Hà Minh T phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho chị Lộc Thị T 11.400.000 (mười một triệu bốn trăm nghìn) đồng.
Kể từ khi bản án có hiệu lực bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, đối với khoản tiền bồi thường trên, bên có nghĩa vụ thi hành án chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
4. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy gồm: 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp đã cũ; 01 then chốt cửa bằng sắt bị đứt, gãy.
Trả lại cho ông Lộc Văn K: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lộc Văn K có số vào sổ cấp GCN: CH002** ngày 22-12-2009, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Văn Lãng ký; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lộc Văn K có số vào sổ cấp GCN: CH002** ngày 22-12-2009, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Văn Lãng ký (Các vật chứng trên được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04-11- 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn).
5. Về án phí: Buộc bị cáo Hà Minh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 570.000 (năm trăm bẩy mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng 770.000 (bẩy trăm bẩy mươi nghìn) đồng nộp ngân sách Nhà nước.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 78/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 78/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về