Bản án 78/2020/HSST ngày 05/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 78/2020/HSST NGÀY 05/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05/06/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 40/2020/TLST-HS ngày 19/3/2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Hữu Thế K, sinh năm 1987

Nơi đăng ký thường trú: 311/87B N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Quốc tịch: Việt Nam

Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: không

Nghề nghiệp: không

Trình độ học vấn: 10/12õ

Con ông Huỳnh Hữu K (sống) và bà Trương Ngọc Đ (sống)

Tiền sự: ngày 26/6/năm 2017, bị TAND quận N, thành phố C, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Thời hạn 18 tháng kể từ ngày 16/12/2017), chấp hành xong ngày 02/11/2018. Chưa xóa tiền sự

Tiền án: 01, vào ngày 04/7/2012 bị cáo bị xử phạt 02 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, theo bản án số 103/HSST ngày 04/7/2012 của TAND quận N, thành phố C

Bị cáo bị tạm giữ ngày 10/01/2020, đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hạiHuỳnh Thị Mộng X

Địa chỉ: ấp A, xã T huyện B, V

Người có quyền và nghĩa vụ liên quanĐỗ Hoàng S

Địa chỉ: ấp T, xã T, thành phố C, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Huỳnh Hữu Thế K bị Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 15giờ ngày 10/01/2020, Huỳnh Hữu Thế K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nuovo biển số 66P1 – 5xx.xx đi trên các tuyến đường thuộc địa bàn quận N tìm tài sản sơ hở để lấy trộm. Khi đến nhà trọ Cô H, tại khu vực M, phường A, quận N, phát hiện cổng rào nhà trọ không khóa, Huỳnh Thế Hữu K đi vào bên trong tìm tài sản để lấy trộm. Khi đến phòng số 5 của chị Huỳnh Thị Mộng X, thấy cửa phòng không khóa, trên bàn trong phòng có để 01 chiếc cặp bên trong có 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510 và cạnh bên chiếc cặp có để 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám. Bị cáo quan sát không thấy ai trông coi nên lén lấy trộm điện thoại và chiếc cặp bên trong có 01 laptop rồi đi ra ngoài cổng rào định tẩu thoát thì bị anh Đặng Quốc H (là chủ nhà trọ) và chị Lê Thị Bích T phát hiện truy hô, giữ bị cáo lại; lúc này có lực lượng tuần tra – Công an phường X trên đường tuần tra đến lập biên bản bắt quả tang bị cáo về hành vi trộm cắp nêu trên.

Tang vật: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám, 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510, 01 chiếc cặp màu đen bên ngoài có ghi dòng chữ Dell, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nuovo biển số 66P1 – 5xx.xx, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 dép quay hậu màu đen, 01 áo khoác nam màu xanh, 01 áo thun dài tay mày trắng, 01 quần dài bằng vải màu đen. Tất cả tài sản thu giữ đề đã qua sử dụng.

Bản kết luận giám định tài sản số 43/BKL–HĐĐG ngày 14/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thuộc UBND quận N, kết luận: 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510 có giá trị 2.700.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám có giá trị 1.500.000đồng, 01 chiếc cặp đựng laptop có giá trị 45.000đồng. Tổng tài sản có giá trị 4.245.000đồng.

Quá trình điều tra Huỳnh Hữu Thế K thừa nhận hành vi lấp trộm tài sản nêu trên của chị Huỳnh Thị Mộng X.

Cơ quan điều tra đã làm rõ và đã xử lý vật chứng 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám, 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510, 01 chiếc cặp màu đen bên ngoài có ghi dòng chữ Dell cho người bị hại là Huỳnh Thị Mộng X. Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nuovo biển số 66P1 – 5xx.xx, qua xác minh đứng tên chủ sở hữu xe là anh Đỗ Hoàng S, anh S đã bán xe này lại cho 01 thanh niên không rõ lai lịch.

Tại bản cáo trạng số: 56/CT-VKS ngày 16/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố Huỳnh Hữu Thế K về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống như hành vi bị VKS truy tố theo cáo trạng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Mức án đề nghị: Từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2020.

Về xử lý tang vật: Đề nghị áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 2, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống như hành vi bị Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố. Đó là hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo lén lút đột nhập vào các phòng trọ của người bị hại để lấy trộm tài sản. Tài sản bị cáo lấy trộm bao gồm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám, 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510, 01 chiếc cặp màu đen bên ngoài có ghi dòng chữ Dell. Căn cứ theo bản kết luận giám định tài sản số 43/BKL–HĐĐG ngày 14/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thuộc UBND quận N, kết luận tổng giá trị tài sản bị cáo lấy trộm là 4.245.000đồng.

Lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với những chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của người bị hại, người lm chứng và tang vật thu giữ được.

Bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ hành vi lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do lười lao động chỉ muốn có tiền một cách nhanh chóng để tiêu xài mà không dựa vào sức lao động của mình nên bị cáo đã tìm sự sơ hở về quản lý tài sản của người khác để trộm cắp. Từ đó cho thấy ý thức phạm tội của bị cáo là cố ý vì bị cáo biết hậu quả của việc mình làm là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác nhưng vẫn bất chấp thực hiện.

Hậu quả của hành vi mà bị cáo gây ra không chỉ xâm phạm về quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến an ninh công cộng và trật tự xã hội.

Từ những cơ sở nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi lấy trộm tài sản của những người bị hại mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng là có cơ sở.

Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể ngày 26/6/năm 2017, bị TAND quận N, thành phố C, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Thời hạn 18 tháng kể từ ngày 16/12/2017), chấp hành xong ngày 02/11/2018. Đến thời điểm phạm tội mới bị cáo chưa được xóa tiền sự. Ngoài ra, vào ngày 04/7/2012 bị cáo bị xử phạt 02 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, theo bản án số 103/HSST ngày 04/7/2012 của TAND quận N, thành phố C. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào 30/8/2013. Tuy nhiên, căn cứ vào giấy xác nhận số 82/GXN – CCTHADS ngày 24/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận N, về phần trách nhiệm dân sự tại bản án nêu trên bị cáo vẫn chưa thực hiện xong việc bồi thường cho những người bị hại có đơn yêu cầu thi hành án. Do đó, trong trường hợp này bị cáo chưa đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 nên chưa được xóa án tích. Như vậy, lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của BLHS 2015 và bị cáo phải chịu áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015. Đối với bản án số 26/2015/HSST ngày 31/03/2015 của TAND quận C, thành phố C xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản đồng thời bị cáo phải thi nộp án phí là 200.000đồng và không có hình phạt bổ sung khác. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15/7/2016, thi hành xong khoản án phí vào tháng 9/2015. Như vậy căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 70 BLHS 2015, trường hợp này bị cáo đương nhiên được xóa án tích.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên trong quá trình điều tra người bị hại đã được nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét (bút lục 17, 24).

Về tang vật:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 2 màu xám, 01 laptop hiệu Dell màu xám trắng, model E6510, 01 chiếc cặp màu đen bên ngoài có ghi dòng chữ Dell, quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở nên không xem xét.

- Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nuovo biển số 66P1 – 5xx.xx màu đỏ, đen, trắng, số máy 5P11272971, số khung RLCN5P110AY272970, dung tích 135cc, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, qua xác minh người đứng tên chủ sở hữu ban đầu là anh Đỗ Hoàng S, tuy nhiên, anh S xác định đã bán xe này lại cho 01 thanh niên không rõ lai lịch. Quá trình điều tra bị cáo xác định xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nuovo nêu trên là của bị cáo mua của một người trên mạng xã hội. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai xe này bị cáo cùng với một người em của bị cáo mua trên trang bán hàng Chợ Tốt, hiện tại giấy đăng ký xe người em của bị cáo giữ. Lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa chưa có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét, vì bị cáo không khai được tên họ đầy đủ và địa chỉ của người em này. Ngoài ra, bị cáo không có bất kỳ giấy tờ hay hợp đồng mua bán nào để chứng minh đã mua chiếc xe trên hoặc chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xác định xe này chưa rõ chủ sở hữu vì vậy căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật dân sự cần thông báo tìm kiếm chủ sở hữu trên các phương tiện thông tin truyền thông trong thời hạn 01 năm, sau 01 năm nếu không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung công.

- 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi dép quay hậu, 01 áo khoác nam màu xanh, 01 áo thun dài tay màu trắng, 01 quần dài bằng vải màu đen. Là vật dụng cá nhân của bị cáo không liên quan đến bị cáo nên trả lại cho bị cáo

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- TUYÊN BỐ: Huỳnh Hữu Thế K phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- ÁP DỤNG: Khoản 1 Điều 173, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 228 của Bộ luật dân sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- XỬ PHẠT: Huỳnh Hữu Thế K 02 (hai) năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên không xem xét.

Về xử lý tang vật:

- Giao cơ quan thi hành án thông báo tìm kiếm chủ sở hữu xe mô tô

nhãn hiệu Yamaha Nuovo biển số 66P1 – 5xx.xx màu đỏ, đen, trắng, số máy 5P11272971, số khung RLCN5P110AY272970, dung tích 135cc, xe đã cũ. Thời hạn thông báo tìm kiếm là 01 năm. Hết thời hạn 01 năm kể từ ngày thông báo nếu không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung công.

-Trả lại cho bị cáo 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi dép quay hậu, 01 áo khoác nam màu xanh, 01 áo thun dài tay màu trắng, 01 quần dài bằng vải màu đen.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo. Đối với người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 78/2020/HSST ngày 05/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;