Bản án 78/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 218/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐST-HS ngày 09/01/2019; Các quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-HS ngày 29/01/2019; số 05/QĐST-HS ngày 18/4/2019 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 03/TB-TA ngày 02/5/2019, đối với các bị cáo:

1. Phan Văn C, sinh năm 1983, tại An Giang; Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn N và bà Đặng Thị C; Vợ: Đặng Thị N, sinh năm 1997 và có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; Ngày 08/9/2018, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thị xã G (trong vụ án khác, chưa xét xử), bị Công an thị xã G, tỉnh Tiền Giang khởi tố, bắt tạm giam. Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang; có mặt tham gia phiên tòa.

2. Nguyễn Chí T, sinh năm 1994, tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Khu phố 1, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Bạch T; Vợ: Ngô Ngọc H, sinh năm 1996 (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Ngày 08/9/2018, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thị xã Gò Công (trong vụ án khác, chưa xét xử), bị Công an thị xã G, tỉnh Tiền Giang khởi tố, bắt tạm giam. Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang; có mặt tham gia phiên tòa.

- Bị hại: Trường Trung học phổ thông A; Địa chỉ: khu phố 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện hợp pháp: Bà Đỗ Thị Hồng N – Phó hiệu trưởng trường THPT A (vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt ).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đỗ Thanh B, sinh năm 1987; Trú tại: 220, đường G, phường T, quận T, Thành Phố Hồ Chí Minh (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối tháng 07/2018, Phan Văn C và Nguyễn Chí T gặp nhau ở thành phố L, tỉnh An Giang. Tại đây, C rủ T đi đến tỉnh Đồng Nai đột nhập vào các trường học trộm cắp linh kiện máy vi tính để bán kiếm tiền tiêu xài, T đồng ý. C nói T đi thuê xe ô tô tự lại làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, T đến Công ty dịch vụ du lịch ôtô T tại thành phố R, tỉnh Kiên Giang thuê xe ôtô hiệu Fortuner biển số: XXXXXXX rồi quay lại thành phố L đón C. Khi đi, T rủ theo bạn gái là Liêu Thị Cẩm T, sinh năm: 1994, HKTT: ấp M, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang đi cùng, nhưng T không nói cho T biết mục đích đi trộm cắp tài sản. Khi đi, C mang theo 01 kìm cộng lực và 01 tuốc nơ vít. Sau đó T điều khiển xe chở C và T đến thành phố B, tỉnh Đồng Nai thuê nhà nghỉ, đồng thời tìm các trường học đạt chuẩn để trộm cắp linh kiện máy vi tính.

Vào buổi trưa ngày hôm sau, T điều khiển xe chở C đi tìm các mục tiêu để ban đêm trộm cắp, khi đến thị trấn T thì xác định được Trường Trung học phổ thông A tại thị trấn T. Sau khi xác định được mục tiêu, C và T chạy xe xung quanh trường để quan sát rồi quay về thành phố B. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T điều khiển xe ô tô chở C, còn T nằm ngủ ở hàng ghế sau đi từ thành phố B đến phía sau trường Trung học phổ thông A thì dừng lại, T điều khiển xe đi khoảng 500m thì dừng bên lề đường chờ. C leo qua hàng rào vào trong trường Trung học phổ thông A, sau đó C đi lên tầng 2 của Trường học dùng kìm cộng lực bẻ tai khóa cửa của phòng máy vi tính đột nhập vào bên trong tháo trộm 38 thanh ram và 10 thanh CPU của máy vi tính để bàn hiệu Dell cất giấu vào túi quần rồi đi ra xe cùng T quay về nhà nghỉ tại thành phố B. Đến trưa hôm sau, T và C đem số tài sản trộm cắp được đến cửa hàng mua bán, sửa chữa linh kiện máy vi tính “B” tại số 220, đường G, phường T, quận T, TP Hồ Chí Minh bán cho anh Đỗ Thanh B (là chủ cửa hàng) được số tiền 9.800.000 đồng. Sau khi trừ chi phí ăn ở, C chia cho T 3.600.000 đồng, bao gồm cả số tiền thuê xe là 3.200.000 đồng, số tiền còn lại thì C cất giữ tiêu xài riêng.

Đến ngày 14/8/2018, Trường Trung học phổ thông A phát hiện bị mất tài sản tại phòng máy vi tính nên trình báo Công an huyện Trảng Bom, do đang trong thời gian học sinh nghỉ hè nên trường THPT A không xác định được chính xác ngày mất tài sản.

Theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Trảng Bom thì 38 thanh RAM và 10 linh kiện CPU của 38 máy vi tính hiệu DELL mà Phan Văn C và Nguyễn Chí T trộm cắp của Trường Trung học phổ thông A có tổng trị giá tài sản là 33.800.000 đồng (Ba mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng).

Ngày 08/9/2018, C và T tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thị xã G (trong vụ án khác), bị Công an thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang khởi tố, bắt tạm giam. Qua công tác điều tra của Công an thị xã Gò Công, C và T đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của Trường Trung học phổ thông A tại huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Ngày 25/10/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bom đã khởi tố vụ án, ngày 06/11/2018 khởi tố bị can đối với Phan Văn C và Nguyễn Chí T để điều tra. Quá trình điều tra, Phan Văn C và Nguyễn Chí T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Đối với Liêu Thị Cẩm T, C và T khai T không biết việc C và T trộm cắp tài sản và cũng không được C và T chia tiền. Đồng thời do T không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bom tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với 10 CPU và 38 thanh RAM máy vi tính, sau khi mua của C và T, anh B đã bán nên không thu hồi được.

Đối với 01 tuốc nơ vít và 01 kìm cộng lực, Công an thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang đã thu giữ, xử lý trong vụ án xảy ra ở thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Về dân sự: Trường Trung học phổ thông A yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 46.800.000 đồng là tiền mà nhà trường đã bỏ ra để lắp ráp, thay thế các thiết bị máy tính mà các bị cáo đã chiếm đoạt.

Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKS-TB ngày 25 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử Phan Văn C và Nguyễn Chí T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Phan Văn C từ 10 tháng đến 01 năm 03 tháng tù và Nguyễn Chí T từ 08 tháng đến 01 năm tù. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo phải bồi thường cho Trường Trung học phổ thông A số tiền 46.800.000 đồng và phải chịu án phí theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng thời gian cuối tháng 7/2018, Phan Văn C và Nguyễn Chí T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 38 thanh RAM và 10 linh kiện CPU máy vi tính để bàn hiệu DELL có tổng trị giá tài sản là 33.800.000 đồng (ba mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng) của Trường Trung học phổ thông A tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Như vậy các bị cáo Phan Văn C và Nguyễn Chí T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên cần xử phạt các bị cáo một mức án đủ nghiêm để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành những người công dân tốt, sống tôn trọng pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ, vai trò của từng bị cáo thì thấy: Tuy các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng chỉ ở mức độ đồng phạm giản đơn. Bị cáo Phan Văn C là người chủ mưu và trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên cần xử phạt bị cáo mức án cao hơn so với bị cáo Nguyễn Chí T. Bị cáo Nguyễn Chí T tham gia thực hiện hành vi phạm tội với vai trò chở Phan Văn C và đưa tài sản chiếm đoạt được đi tiêu thụ nên cũng cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tình chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[3] Xét về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Trong quá trình điều tra vụ án ở thị xã G, các bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện tại thị trấn T (vụ án này); Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, r, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về dân sự: Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Trị giá tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 33.800.000 đồng. Tuy nhiên chi phí mà Trường Trung học phổ thông A bỏ ra để khắc phục hậu quả là 46.800.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý chịu trách nhiệm liên đới bồi thường 46.800.000 đồng như Trường Trung học phổ thông A yêu cầu. Như đã nhận định ở trên, bị cáo C có vai trò lớn hơn trong vụ án này và được chia tiền nhiều hơn trong số tiền phạm tội mà có nên bị cáo C phải bồi thường 60% là 28.080.000 đồng. Bị cáo T phải bồi thường 40% là 18.720.000 đồng.

[5] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Về án phí phần bồi thường dân sự: Bị cáo C phải nộp là 28.080.000 đồng x 5% = 1.404.0000 đồng; Bị cáo T phải nộp là 18.720.000 đồng x 5% = 936.000 đồng.

[6] Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[7] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đúng quy định của pháp luật. Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phan Văn C và Nguyễn Chí T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

 Xử phạt bị cáo Phan Văn C 01 (một) năm tù;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T 08 (tám) tháng tù.

Thời hạn tù của các bị cáo được tính từ ngày các bị cáo thi hành hình phạt tù của bản án này.

2. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự và các Điều: 357; 584; Điều 585; 587; 589 Bộ luật Dân sựBuộc các bị cáo Phan Văn C và Nguyễn Chí T phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho Trường Trung học phổ thông A số tiền là 46.800.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu tám trăm nghìn đồng); trong đó phần nghĩa vụ bồi thường của Phan Văn C là 28.080.000 đồng ( Hai mươi tám triệu tám trăm nghìn đồng), phần nghĩa vụ bồi thường của Nguyễn Chí T là 18.720.000 đồng (Mười tám triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ khi Trường Trung học phổ thông A có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền trên, nếu các bị cáo chậm thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Phan Văn C phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.404.0000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 1.604.0000 đồng (Một triệu sáu trăm lẻ bốn nghìn đồng);

Buộc bị cáo Nguyễn Chí T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 936.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 1.136.000 đồng (Một triệu một trăm ba mươi sáu nghìn đồng);

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

508
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 78/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;