TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 10/12/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2019/HSST-QĐ ngày 28 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:
Lê Văn H, sinh năm 1974, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Nghĩa H, xã Đắk N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 03/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn P (đã chết) và con bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị V và 02 con; nhân thân: Ngày 20/6/2016 Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa tuyên phạt 6.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”; ngày 14/3/2019 bị công an phường Nghĩa P, thị xã G xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”; bị bắt tạm giam từ ngày 02/8/2019 đến ngày 06/11/2019; đang tại ngoại. Có mặt.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1980; chị Lê Thị L, sinh năm 1969; chị Hà Thị M, sinh năm 1983; chị Lê Thị Lệ Y, sinh năm 1996 và anh Trần Thanh G, sinh năm 1989; cùng địa chỉ: Tổ dân phố 5, phường Nghĩa P, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường Nghĩa T, thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Anh Lê H, anh Đỗ Bá T và chị Lê Thị Hn. Đều vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/02/2019, tại nhà Mai Văn L thuộc tổ dân phố 5, phường Nghĩa P, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, Công an thị xã Gia Nghĩa bắt quả tang 1 L cùng Lê Nhất A, Lương Văn T, Nguyễn Phú D, Trần Văn Hg và Nguyễn Xuân Tg đang đánh bạc, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 4.610.000 đồng, thu giữ trên người các đối tượng số tiền 16.200.000 đồng và áp dụng các quy định để tiến hành xử lý theo pháp luật hành vi của Mai Văn L và đồng phạm.
Sau khi Mai Văn L và đồng phạm bị dẫn giải về Nhà tạm giữ Công an thị xã Gia Nghĩa thì khoảng 09 giờ ngày 04/02/2019, tại nhà L, có chị Nguyễn Thị T và cháu Mai Tr là vợ và con của L cùng chị Nguyễn Thị Thu H (vợ của Nhất A), chị Lê Thị L (chị vợ của T), chị Hà Thị M (vợ của D), anh Trần Thanh G (em của H), chị Lê Thị Lệ Y (vợ của Tg) tiến hành trao đổi cách đối phó để L, Nhất A, T, D, Hg và Tg không bị xử lý theo quy định của pháp luật. Mọi người đang bàn tán thì Lê Văn H là cậu ruột của Nguyễn Xuân Tg đi đến. Khi nghe những người ở đây nói chuyện thì H liền nói với mọi người là H có mối quan hệ quen biết với anh Đỗ Hồng K (Đội trưởng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông), để H liên hệ và nhờ anh K giúp cho L, Nhất A, T, D, Hg và Tg được tại ngoại và không bị xử lý. H nói mọi người ở đây chờ để H đi gặp K rồi H đi khỏi nhà L. Khoảng 30 phút sau, H quay lại nhà L thông báo với những người có mặt tại đây là H gặp nhờ K rồi, mỗi người phải đóng phạt hành chính số tiền 30.000.000 đồng thì sẽ được về nhà luôn. Nếu các gia đình đồng ý thì chuẩn bị đủ tiền trước 12 giờ hôm nay cho H. Khi nghe H nói vậy thì chị T, chị H, chị M, chị L và anh G tin tưởng rằng chỉ phải đóng phạt hành chính là người nhà của họ được về nhà luôn nên những người này đồng ý nhờ H giúp rồi mọi người đi chuẩn bị tiền để đưa cho H. Đối với người nhà của Tg thì H nói trước với bà Lê Thị Hn (mẹ Tg) và chị Lê Thị Lệ Y (vợ của Tg) là cứ chuẩn bị số tiền như 05 nhà kia, H sẽ trả lại vì phần của Tg không phải chung. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, chị T, chị H, chị Y, chị M, chị L và anh G lo đủ số tiền 180.000.000 đồng và mang đến nhà L theo yêu cầu của H. Lúc này, có anh Lê H (em của Nhất A), anh Đỗ Bá T (người quen của Nhất A) cũng có mặt tại đây nên những người này nhờ anh Lê H và anh Bá T đếm lại tiền giúp. Anh Lê H và anh Bá T đếm thấy đủ và bỏ vào túi nilon, rồi giao tiền cho H. H cầm tiền và nói đi gặp anh K. H đi về nhà bà Hn và đưa lại cho chị Y số tiền 30.000.000 đồng mà chị Y đã giao cho H trước đó và nói của Tg không phải đóng, số tiền còn lại H nói đi gặp anh K và đưa 150.000.000 đồng nhưng không có cơ sở chứng minh.
Kết quả điều tra ban đầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa xác định tổng số tiền Mai Văn L và đồng phạm dùng để đánh bạc là 6.550.000 đồng nên ngày 04/02/2019 đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Lê Nhất A, Lương Văn T, Nguyễn Phú D, Trần Văn Hg, Nguyễn Xuân Tg và L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự để xử lý theo quy định của pháp luật.
Sau khi biết người thân mình đã bị khởi tố điều tra nên chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Thu H, chị Lê Thị L, chị Hà Thị M và anh Trần Thanh G làm đơn tố cáo Lê Văn H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ của bị cáo Lê Văn H 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei 352987/10/272015/0, 352988/10/272015/8; 02 sim điện thoại số 0948821715, 0369409827 và số tiền 34.850.000đ (ba mươi tư triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Cáo trạng số 81/CT-VKS-P3 ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình và thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, điểm, khoản và điều luật áp dụng như Cáo trạng là đúng người, đúng pháp luật.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố; sau khi phân tích nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/8/2019 đến ngày 06/11/2019.
Về bồi thường thiệt hại: Đề nghị chấp nhận việc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho các bị hại chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Thu H, chị Lê Thị L, chị Hà Thị M và anh Trần Thanh G mỗi người số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng). Các bị hại không yêu cầu gì thêm, nên không đề cập giải quyết.
Việc xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại cho bị cáo Lê Văn H, số tài sản đã thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei 352987/10/272015/0, 352988/10/272015/8; 02 sim điện thoại số 0948821715, 0369409827 và số tiền 34.850.000đ (ba mươi tư triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng), đây là tài sản của bị cáo H.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:
Khoảng 09 giờ ngày 04/02/2019, tại nhà Mai Văn L thuộc tổ dân phố 5, phường Nghĩa P, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, Lê Văn H đưa ra thông tin là H có mối quan hệ quen biết với anh Đỗ Hồng K (Đội trưởng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông), lo được cho Mai Văn L, Lê Nhất A, Lương Văn T, Nguyễn Phú D, Trần Văn Hg và Nguyễn Xuân Tg bị Công an thị xã Gia Nghĩa bắt quả tang về hành vi đánh bạc trước đó chỉ bị xử phạt hành chính và được về nhà luôn, mỗi gia đình góp số tiền 30.000.000 đồng, làm cho chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Thu H, chị Lê Thị L, chị Hà Thị M và anh Trần Thanh G tin là thật nên đã đưa cho H tổng số tiền 150.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H sử dụng cá nhân.
Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, cụ thể:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
.........
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
… c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;”.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu, làm thiệt hại về tài sản của người khác.
Xét về nhân thân: Ngày 20/6/2016, Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa tuyên phạt 6.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”; ngày 14/3/2019 bị công an phường Nghĩa P, thị xã G xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị và giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh, phòng chống tội phạm.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho các bị hại; được các bị hại làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Nhận thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có hai tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[5] Việc bồi thường thiệt hại: Xét thấy, gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Thu H, chị Lê Thị L, chị Hà Thị M và anh Trần Thanh G mỗi người số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật cần chấp nhận. Các bị hại không yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei 352987/10/272015/0, 352988/10/272015/8; 02 sim điện thoại số 0948821715, 0369409827 và số tiền 34.850.000đ (ba mươi tư triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo Lê Văn H, đây là tài sản của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.
[7] Xét các chứng cứ buộc tội, quan điểm đề nghị xử lý của đại diện Viện kiểm sát, là có căn cứ cần chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Lê Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/8/2019 đến ngày 06/11/2019, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Việc bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự: Chấp nhận việc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho các bị hại chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Thu H, chị Lê Thị L, chị Hà Thị M và anh Trần Thanh G mỗi người số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
4. Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Trả lại cho bị cáo Lê Văn H 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei 352987/10/272015/0, 352988/10/272015/8; 02 sim điện thoại số 0948821715, 0369409827 (có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G) và số tiền 34.850.000đ (ba mươi tư triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng), theo Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 14/11/2019 tại Kho bạc Nhà nước Đắk Nông.
5. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Các bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 78/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 78/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về