TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 78/2019/HS-PT NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2019/HS-PT ngày 08-7-2019, do có kháng cáo của bị cáo Phạm Trung A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2019/HS-ST ngày 30-5-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa.
Bị cáo có kháng cáo: Phạm Trung A, sinh năm 1998 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện T, tỉnh Bình Thuận; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Phạm Văn H và con bà Nguyễn M; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-11-2018 - Có mặt.
Bị hại: Chị Bùi Thị Cúc H, sinh năm 2001; địa chỉ: Tổ Q, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Cuối năm 2015, chị Bùi Thị Cúc H bị mất tài khoản Facebook nên đã nhờ Phạm Trung A giúp. Sau khi lấy lại được tài khoản cho chị H, A đã yêu cầu chị H chụp hình khỏa thân có ghi chữ “PTA” lên ngực để trả công và được chị H đồng ý và đã gửi một số hình khỏa thân cho A.
Khoảng đầu năm 2018, A cần tiền tiêu xài nên đã dùng ảnh khỏa thân của chị H để đe dọa. Sau đó, A gửi lại hình ảnh khỏa thân cho chị H, yêu cầu chị H đưa số tiền 9.000.000 đồng, nếu không sẽ đăng những hình ảnh này lên mạng xã hội. Khi nhận được ảnh, chị H lo sợ nên đã nhắn tin hỏi thì A yêu cầu chị H gửi số tiền 1.500.000 đồng thì sẽ xóa hết hình ảnh. Ngày 11-3-2018, chị H gửi số tiền 1.500.000 đồng cho A qua số điện thoại di động.
Đến đầu tháng 5-2018, A tiếp tục đe dọa buộc chị H phải gửi số tiền 10.000.000 đồng. Do chị H không có tiền nên A yêu cầu chụp khoảng 400-500 tấm hình khỏa thân gửi cho A. Ngày 13-6-2018, A yêu cầu và được chị H đồng ý mua 01 card điện thoại Viettel trị giá 100.000 đồng và 02 mã thẻ Game trị giá mỗi cái 50.000 đồng. Ngày 20-6-2018, A tiếp tục yêu cầu chị H chuyển số tiền 15.000.000 đồng qua số điện thoại di động.
Khoảng tháng 10-2018, A đăng 01 ảnh khỏa thân của chị H lên Group kín (Nhóm kín) tên “P Q L SJ”. Đến ngày 30-11-2018, bà Vũ Thị N là mẹ đẻ của chị H biết sự việc, nên đã kết bạn với A để nhờ giúp đỡ, A yêu cầu bà N phải gửi số tiền 8.000.000 đồng, nếu không sẽ tiếp tục đăng hình, đồng thời gửi cho bà N một số hình ảnh của chị H để đe dọa. Sau đó, A nhiều lần yêu cầu bà N gửi tiền trước ngày 07-11-2018. Sự việc trên đã được bà N đã trình báo đến Công an tỉnh Đắk Nông. Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 07-11-2018, bà N đến cửa hàng V tại tổ W, phường N gửi số tiền 8.000.000 đồng qua số điện thoại 0967.766.097 cho A, khi A đang nhận tiền tại cửa hàng Đ tại thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông bắt quả tang cùng vật chứng.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2019/HS-ST ngày 30-5-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa: Tuyên bố bị cáo Phạm Trung A, phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Trung A 02 năm 06 tháng tù.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 06-6-2019, Phạm Trung A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nôi dung kháng cáo và thừa nhận bị Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa kết án về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là đúng, không oan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Bị cáo trình bày: Do suy nghĩ nông nổi, chưa thấu đáo và nhận thức pháp luật còn hạn chế nên đã phạm tội. Tuy nhiên, hiện nay bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bản thân bị cáo là lao động chính và phải có trách nhiệm chu cấp cho mẹ đẻ đang sống một mình vì bị bệnh hiểm nghèo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[1]. Từ ngày 11-03-2018 đến ngày 20-6-2018, thông qua mạng xã hội Facebook Phạm Trung A 03 lần sử dụng hình ảnh khỏa thân của chị Bùi Thị Cúc H để uy hiếp tinh thần chị H chiếm đoạt số tiền 3.200.000 đồng và ngày 07- 11-2018 bà Vũ Thị N chuyển cho bị cáo số tiền 8.000.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo Phạm Trung A đã bị kết án về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau: Mặc dù, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và đã được áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, số tiền bị cáo chiếm đoạt mỗi lần không lớn; sau khi phạm tội đã thực sự tỏ ra ăn ăn hối cải. Do đó, mức hình phạt Hội đồng xét xử sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo có phần nghiêm so với tính chất, mức độ hành vi do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo về giảm hình phạt đối với bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[3]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên người bị cáo Phạm Trung A không phải án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Trung A, sửa Bản án sơ thẩm số: 21/2019/HS-ST ngày 30-5-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa về phần hình phạt. Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Trung A 02 (Hai) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 07-11-2018.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 78/2019/HS-PT ngày 10/09/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 78/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về