Bản án 78/2017/HS-ST ngày 21/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 78/2017/HS-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2017/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2017/HSST-QĐ ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo: 

NGUYỄN VĂN B, sinh năm 1988; Hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn G, xã X, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Mai Thị H (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 04-4-2014 bị Công an huyện Thanh Hà xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Hình thức: cảnh cáo (đã xóa); bị tạm giữ từ ngày 21-7-2017, chuyển tạm giam từ ngày 23-7-2017 đến nay tại Trại giam Kim Chi – Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983

Trú tại: thôn G, xã X, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy (chất Hêrôin), khoảng 10 giờ ngày 04-3-2017, Nguyễn Văn B nhờ xe của người đi đường từ thôn G, xã X, huyện T, tỉnh Hải Dương đến khu vực đường tàu thuộc địa phận quận L, thành phố Hải Phòng, mục đích tìm mua Hêrôin về sử dụng. Tại đây, B mua được 01 gói giấy, loại giấy kẻ học sinh, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng của một người đàn ông không quen biết khoảng 40 tuổi với giá 100.000đ. B cho số ma túy mua được vào trong túi quần bên phải, phía trước rồi đi về, trên đường về, B gặp anh Nguyễn Văn T - sinh năm 1983 ở cùng thôn nên nhờ anh T chở về huyện T, anh T đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi đến khu vực bến đò C, địa phận thôn Z, xã X, huyện T thì B bị tổ công tác thuộc Công an huyện Thanh Hà kiểm tra hành chính, thu giữ trong túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 gói giấy, loại giấy kẻ học sinh, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, B khai là hêrôin mục đích để sử dụng. B bỏ trốn khỏi nơi cư trú, đến ngày 21-7-2017 bị bắt theo Quyết định truy nã.

Tại Kết luận giám định số 77/KLGĐ ngày 08-3-2017, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Mẫu chất bột (dạng cục) màu trắng, ghi thu của Nguyễn Văn B gửi đến giám định có trọng lượng là 0,337g là Hêrôin, chất ma tuý nằm trong danh mục I, STT 20, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Hoàn lại 0,282g sau giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn B không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, khai nhận hành vi cất giấu trái phép Hêrôin, mục đích để sử dụng.

Tại Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 24-8-2017, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (viết tắt là BLHS)

Đại diện VKSND huyện Thanh Hà giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn B đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ Luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7 Bộ Luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21-7-2017. Hình phạt bổ sung: không áp dụng. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS năm 1999 và điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS); Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng số 77 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (bên trong có số ma túy hoàn lại sau giám định).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Hà, Điều tra viên, VKSND huyện Thanh Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn B tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản vi phạm hành chính, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 00 phút, ngày 04-3-2017 tại khu vực bến đò C, địa phận thôn Z, xã X, huyện T, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn B đang cất giấu trái phép 0,337g Hêrôin, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 là đúng pháp luật.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, ngày 04-4-2014 bị Công an huyện Thanh Hà xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đã được xóa).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

[7] BLHS năm 2015 quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Điều 249, khung hình phạt tù theo khoản 1 “từ 1 năm đến 5 năm” nhẹ hơn khung hình phạt tù theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 “từ 2 năm đến 7 năm”. Căn cứ khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định của BLHS năm 2015 để xem xét quyết định hình phạt theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS năm 1999 và điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS.

 [10] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 99 BLTTHS, Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14.

Đối với người bán ma túy cho B, do không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý. Anh Nguyễn Văn T không biết B cất giấu ma túy nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS năm 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21-7- 2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS năm 1999 và điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS; Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng số 77 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (bên trong có số ma túy hoàn lại sau giám định).

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Thanh Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 78/2017/HS-ST ngày 21/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;