Bản án 780/2020/HN-PT ngày 19/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 780/2020/HN-PT NGÀY 19/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 18 và 19 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 79/2020/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 560/2020/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3962/2020/QĐ-PT ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1973;

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1970.

Cùng địa chỉ: đường M, Phường N1, quận P1, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Thanh T. Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/11/2019, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị Y trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thanh T kết hôn vào năm 1998, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường N2, quận P2, Thành phố Hồ Chí Minh. Có hai con chung là Nguyễn Thanh H, sinh ngày 02/8/1999 và Nguyễn Thị Y N, sinh ngày 16/6/2005. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bà và ông T không cùng quan điểm, lối sống và suy nghĩ quá khác nhau. Ông T hay ghen tuông vô cứ, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xung đột, cãi vã nhau ảnh hưởng đến việc học hành của con. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên Bà xin ly hôn với ông T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Nguyễn Thị Thanh H đã trưởng thành, còn Nguyễn Thị Y N, sinh ngày 16/6/2005 bà Y yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Bà Y khai không có.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T trình bày:

Ông Nguyễn Thanh T xác nhận việc kết hôn và con chung như lời trình bày của bà Y. Tuy nhiên, ông T cho rằng giữa ông và bà Y chung sống hạnh phúc, chỉ có mâu thuẫn nhỏ về lời nói. Ông còn thương vợ, muốn gia đình đoàn tụ nên không đồng ý ly hôn. Tại buổi hòa giải ngày 14/01/2020, ông T trình bày nếu bà Y muốn thì cứ sống ly thân, mạnh ai người ấy sống, không ai can thiệp cuộc sống của ai. Nếu phải ly hôn, con chung muốn ở với ai thì ở, nếu ở với bà Y, ông T sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 560/2020/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Y đối với ông Nguyễn Thanh T.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Y được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T (Giấy chứng nhận kết hôn số 35/2998, do Uỷ ban nhân dân Phường N2, quận P2, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Y và ông T ngày 07/11/1998 không còn giá trị).

Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Thị Y N, sinh ngày 16/06/2005 cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng. Ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con trưởng thành.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ, người thân thích; cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Đối với con chung Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1999 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Các đương sự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo và thi hành án của các đương sự theo qui định của pháp luật.

Ngày 16/6/2020, ông Nguyễn Thanh T kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm số 560/2020/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh với nội dung:

Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án. Vợ ông mới đưa đơn ly hôn và hai vợ chồng chưa có thời gian ly thân. Từ khi vợ đưa đơn thì ông không hề có hành động gì, luôn yêu vợ, chỉ mong sự hiểu lầm đôi bên được giải tỏa và hàn gắn gia đình để gia đình không rơi vào hoàn cảnh tan nát, ảnh hưởng đến việc học tập và tương lai của con chung. Ông còn rất yêu vợ và không muốn ly hôn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Y trình bày: Bà đã 04 lần nộp đơn xin ly hôn và rút đơn về do ông T năn nỉ. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T trình bày: Ông không đồng ý ly hôn. Ông còn thương vợ và mong muốn hàn gắn gia đình. Ông xác định có những hành vi không đúng với vợ do lúc đó ông nóng nảy, không kiềm chế được bản thân. Bản thân ông còn yêu vợ và thương con, đề nghị Hội đồng xét xử cho vợ chồng ông được ly thân để tự hòa giải, về chung sống cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn ly hôn của bà Y.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán chủ tọa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; Phạm vi xét xử phúc thẩm” tại phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo ngày 16/6/2020 của ông Nguyễn Thanh T nộp trong thời hạn luật định và đã đóng tạm ứng án phí phúc thẩm, là phù hợp với quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên đơn kháng cáo được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Xét kháng cáo của ông T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét bác đơn ly hôn của bà Y, cho vợ chồng ông được ly thân để có thời gian tự hòa giải và hàn gắn gia đình để gia đình không rơi vào hoàn cảnh tan nát, ảnh hưởng dến việc học tập và tương lai của con chung. Ông còn yêu vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện, đã xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm bà Y kiên quyết ly hôn, không muốn hàn gắn, vợ chồng mỗi người đã sống một nơi, ông T muốn đoàn tụ nhưng không được bà Y đồng ý, đồng thời ông T cũng không đưa ra được phương án để có khả năng hàn gắn gia đình. Cho thấy việc cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Y được ly hôn với ông T là phù hợp với khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Các đương sự đồng ý với bản án sơ thẩm và không có kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên ông T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội Ban hành quy định về mức thu, miễm giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 38, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 và Điều 107, 110, 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội Ban hành quy định về mức thu, miễm giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Y được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 35 do Uỷ ban nhân dân Phường N2, quận P2, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Y và ông T ngày 07/11/1998 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Thị Y N, sinh ngày 16/06/2005 cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng. Ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thi hành từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Ông Nguyễn Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Bà Y có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông T nếu ông T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Các đương sự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2/ Án phí:

- Bà Nguyễn Thị Y phải chịu án phí sơ thẩm số tiền 300.000 (Hai trăm ngàn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Y đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0025076 ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Y đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Ông Nguyễn Thanh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng. Thi hành tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

- Ông Nguyễn Thanh T chịu án phí phúc thẩm số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số số AA/2019/0026372 ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 780/2020/HN-PT ngày 19/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:780/2020/HN-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;