TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 77/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2024/TLST-HS, ngày 21 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hoàng P; Giới tính: Nam; Sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: Số 106D/87 đường L, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Nhà không số, Tổ 6, Ấp 4A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thái H và bà Lê Thị ; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 19/5/2020, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù giam về tội Cướp giật tài sản, theo Bản án số 52/2020/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 17/01/2023. Đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự vào ngày 15/9/2020.
Nhân thân: Ngày 09/6/2014, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản, theo Bản án số 71/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 23/01/2017. Đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự và án phí dân sự vào ngày 22/01/2015.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2023. (có mặt)
* Bị hại: Em Nguyễn Lê Tường V, sinh ngày 20/3/2009; Nơi cư trú: Nhà không số , Tổ 6, Ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) Người đại diện của bị hại em Nguyễn Lê Tường V:
1/ Ông Nguyễn Chí T (vắng mặt)
2/ Bà Lê Thị D, sinh năm 1991 (vắng mặt) Nơi cư trú: Nhà không số, Tổ 6, Ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh – Là cha, mẹ của em V.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990; Nơi cư trú: 308 đường Thới Hòa, Ấp 5, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
2/ Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Nhà không số, Tổ 6, Ấp 4A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3/ Bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1970; Nơi cư trú: 430/6 đường Phan Văn Trị, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
4/ Ông Đoàn Hoài Ph1, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Khu dân cư 1, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/6/2023, bị cáo Nguyễn Hoàng P nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Bị cáo điều khiển xe mô tô Wave màu trắng đen bạc biển số 59H1-752.xx từ nhà không số, thuộc Ấp 4, xã A, huyện B chạy đến khu vực nghĩa địa Ấp 5A, xã A. Tại đây, bị cáo lấy biển số 61F1-752.xx từ trong cốp xe ra thay biển số 59H1-752.xx của xe mô tô (có số khung RLHJA3905HY111534, số máy: JA39E0111591), rồi lấy biển số này cất vào trong cốp xe. Sau đó, bị cáo lấy áo khoác màu xanh xe công nghệ Gojek mặc vào và đội nón bảo hiểm của xe công nghệ Gojek màu xanh (đã để sẵn tại nơi đây từ trước). Đồng thời, bị cáo treo thêm trên xe mô tô 01 nón bảo hiểm màu đỏ.
Sau khi thay đổi biển số xe và trang phục xong, bị cáo điều khiển xe chạy từ đường Thới Hòa, thuộc xã A đến khu vực huyện Hóc Môn tìm tài sản ai để sơ hở cướp giật nhưng không có. Bị cáo điều khiển xe quay lại đường Quách Điêu, thuộc xã A, rồi chạy vào đường bê tông đến trước nhà không số, thuộc khu vực Ấp 4, xã A thì thấy Nguyễn Lê Tường V (sinh năm 2009) đang cầm chiếc điện thoại trên tay phải đi bộ trên đường theo hướng ngược với chiều xe của bị cáo. Bị cáo điều khiển xe chạy qua em V một đoạn khoảng 10m rồi quay đầu xe trở lại chạy áp sát bên phải của V, bị cáo dùng tay trái giật chiếc điện thoại của V đang cầm trên tay phải rồi tăng ga bỏ chạy về hướng đường liên Ấp 2-3-4, xã A, huyện B. Bị cáo cất chiếc điện thoại vừa giật được vào túi quần phía sau. Trên đường đi, xe của bị cáo va chạm vào một xe mô tô của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) nên bị té ngã xuống đường làm vỡ gương kính chiếu hậu bên phải. Bị cáo dựng xe lên tiếp tục điều khiển xe chạy đến tiệm điện thoại Phương Tiến, địa chỉ số 308, đường Thới Hòa, thuộc Ấp 5, xã A, huyện B để bán chiếc điện thoại vừa cướp giật được. Lúc này, tiệm điện thoại Phương Tiến đóng cửa nên bị cáo không bán được chiếc điện thoại này. Sau đó, bị cáo điều khiển xe quay trở lại khu nghĩa địa thuộc Ấp 5A, xã A. Tại đây, bị cáo lấy chiếc điện thoại vừa cướp giật ra xem thì biết chiếc điện thoại di động này hiệu Vivo Y21S, màu xanh đen. Bị cáo lấy biển số xe 59H1- 752.xx từ trong cốp ra thay biển số xe 61F1-494.xx. Bị cáo cất giấu biển số 61F1- 494.xx, áo khoác Gojek, nón Gojek, nón bảo hiểm màu đỏ cùng kính chiếu hậu bị gãy vào khoảng trống giữa hai ngôi mộ trong nghĩa địa, rồi điều khiển xe đi về nhà. Vào khoảng 15 giờ cùng ngày, bị cáo điều khiển xe đi trở lại tiệm điện thoại Phương Tiến và bán chiếc điện thoại hiệu Vivo Y21S màu xanh đen cho ông Nguyễn Văn T được 400.000 đồng.
Đến ngày 17/6/2023, bị cáo điều khiển xe trở lại khu nghĩa địa thuộc Ấp 5A, xã A, huyện B lấy biển số 61F1-494.xx, áo khoác Gojek, nón Gojek, nón bảo hiểm màu đỏ cùng kính chiếu hậu bị gãy đem qua khu nghĩa địa thuộc Tổ 13, Ấp 2, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn vứt bỏ rồi đi về nhà.
Qua điều tra truy xét, từ tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Nguyễn Lê Tường V trình báo và hình ảnh trong Camera ghi hình được lắp đặt tại trước nhà không số, Tổ 6, Ấp 4, xã A, huyện B. Ngày 21/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiến hành ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Hoàng P để điều tra làm rõ về hành vi cướp giật tài sản người khác.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra ông Nguyễn Văn T trình bày: Vào ngày 13/6/2023, ông T có mua 01 chiếc điện thoại di động Vivo Y21S do Nguyễn Hoàng P nhưng không biết chiếc điện thoại này do phạm tội mà có. Sau khi mua điện thoại, ông T có thay màn hình, vỏ điện thoại với chi phí khoảng 700.000 đồng, chiếc điện thoại này Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ.
Kết luận định giá tài sản số 1912/KL-HĐĐGTS ngày 28/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh: 01 chiếc điện thoại di động Vivo Y21S, trị giá còn lại là 2.600.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Hoàng P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với lời khai của bị hại, người có liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 20/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, g, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Hoàng P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, g, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 8 năm tù;
Về dân sự: Bị hại em Nguyễn Lê Tường V và người đại diện của em V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét; Người có nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.
Về vật chứng:
+ Ghi nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả 01 điện thoại di động Vivo Y21S, màu xanh đen cho em Nguyễn Lê Tường V; trả 01 xe mô tô hiệu Wave màu trắng đen bạc biển số 59H1-752.xx, số khung RLHJA3905HY111534, số máy: JA39E0111591 cho ông Nguyễn Thái H;
+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 mũ bảo hiểm màu đỏ không nhãn hiệu, 01 kính chiếu hậu đã bị vỡ, 01 mũ bảo hiểm màu xanh hiệu Gojek, 01 áo khoác hiệu Gojek; 01 biển số xe 61F1-494.xx.
+ Lưu theo hồ sơ vụ án 01USB Transcend;
+ Buộc bị cáo nộp lại số tiền 400.000 đồng sung Ngân sách Nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, quá trình điều tra các cơ quan tiến hành tố tụng chưa đảm bảo thực hiện đúng thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án như: khi lấy lời khai của bị hại em V không thông báo và không có mặt cha, mẹ của bị hại tham gia đại diện; việc mời dì của bị hại tham gia là người đại diện của bị hại trong quá trình lấy lời khai là xác định chưa đúng người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2028/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi; chưa bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của bị hại là trẻ em theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 trong quá trình lấy lời khai của bị hại.
Với những thiếu sót nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay tài sản bị chiếm đoạt đã trả cho bị hại; bị hại và đại diện của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại hay có yêu cầu gì khác trong vụ án và hiện nay bị hại và đại diện bị hại đã có văn bản xác nhận từ chối trợ giúp pháp lý nên không cần thiết phải trả hồ sơ vụ án để khắc phục các thiếu sót về tố tụng nêu trên, tuy nhiên, cũng cần rút kinh nghiệm chung đối với các cơ quan tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đối với các vụ án tương tự sau này để đảm bảo quyền của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:
Vào ngày 13/6/2023, tại trước nhà không số, Tổ 6, Ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Hoàng P có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 61F- 494.xx chạy áp sát vào bên phải em Nguyễn Lê Tường V, dùng tay trái giật chiếc điện thoại của V đang cầm trên tay phải rồi nhanh chóng tẩu thoát.
Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì bị hại em Nguyễn Lê Tường V là người dưới 16 tuổi (14 tuổi); Bản án số 52/2020/HSST xét xử đối với bị cáo xác định bị cáo đã phạm tội rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng nên lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm.
Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng P đã phạm tội “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, g, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân từng bị xử lý hình sự nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Đối với Nguyễn Văn T mua điện thoại di động Vivo Y21S, màu xanh đen do bị cáo bán nhưng không biết điện thoại này do phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý T về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
- Bị hại, đại diện bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động Vivo Y21S, màu xanh đen và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
- Đối với 01 xe mô tô hiệu Wave màu trắng đen bạc biển số 59H1-752.xx, số khung RLHJA3905HY111534, số máy: JA39E0111591 thu giữ của Nguyễn Hoàng P. Cơ quan Công an đã trả chiếc xe này lại cho ông Nguyễn Thái H nên không xem xét.
- Đối với số tiền 400.000 đồng bị cáo có được từ việc bán 01 điện thoại di động Vivo Y21S cho ông Nguyễn Văn T, sau khi mua chiếc điện thoại, T có thay màn hình, vỏ điện thoại với chi phí khoảng 700.000 đồng: Xét thấy, ông Nguyễn Văn T không có yêu cầu gì đối với bị cáo và không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền này nên không xem xét;
Riêng số tiền 400.000 đồng bị cáo có được là tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội và thực tế đang chiếm hưởng nên cần buộc bị cáo nộp lại số tiền này để tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.
[6] Xử lý vật chứng:
- 01 USB Transcend được lưu theo hồ sơ vụ án: Xét thấy cần lưu theo hồ sơ vụ án dữ liệu này.
- 01 biển số xe 61F1-494.xx, qua xác minh xe mô tô có biển số này là do ông Đoàn Hoài Ph1 làm chủ nhưng ông Ph1 khai chiếc xe bị mất vào ngày 21/4/2023 và xe hiện nay chưa thu hồi nên xét thấy cần tịch thu tiêu hủy biển số xe này.
- 01 mũ bảo hiểm màu đỏ không nhãn hiệu; 01 kính chiếu hậu đã bị vỡ; 01 mũ bảo hiểm màu xanh hiệu Gojek; 01 áo khoác hiệu Gojek: Xét thấy các vật này có giá trị không lớn, để lâu không còn sử dụng được, bị cáo không có yêu cầu nhận lại những vật này nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm d, g, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng P: 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2023.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu, tiêu hủy: 01 mũ bảo hiểm màu đỏ không nhãn hiệu; 01 kính chiếu hậu đã bị vỡ; 01 mũ bảo hiểm màu xanh hiệu Gojek; 01 áo khoác hiệu Gojek; 01 biển số xe 61F1-494.xx.
(Vật chứng trên Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/02/2024 giữa công an huyện Bình Chánh và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) 2.3. Buộc bị cáo nộp lại số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.
2.4. Lưu theo hồ sơ vụ án: 01 USB Transcend (được lưu theo hồ sơ vụ án)
3. Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về án phí: Bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 77/2024/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 77/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về