TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 77/2023/HS-PT NGÀY 07/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07/4/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2023/TLPT-HS ngày 20/02/2023, đối với bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức T; Tên gọi khác: X; sinh năm 1987, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Y, phường KX, Tp. BM, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở: NTP, phường TC, Tp. BM, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn K (đã chết); Con bà Đào Thị Tuyết M (tên gọi khác: Phạm Thị M), sinh năm 1963. Bị cáo có vợ là Huỳnh Thị T, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và có 04 con. Lớn nhất sinh năm 2008; nhỏ nhất sinh năm 2017;
Tiền án: 01 tiền án. Ngày 18/8/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 223/2020/HSST;
Tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/8/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Đức T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy đá (Methamphetamine). Do không có việc làm ổn định, T nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại kiếm lời. Sáng ngày 29 tháng 8 năm 2022, T sử dụng điện thoại di động hiệu Sam sung A13 màu xanh gắn sim số 0948.510.608 đăng nhập vào tài khoản Zalo có tên “Bin Bòn Bon” liên lạc đến tài khoản Zalo có tên “Hồ Dũng” hỏi mua 3.500.000 (ba triệu năm trăm ngàn) đồng ma túy đá, Dũng đồng ý bán, nói T chuyển tiền đến số tài khoản 02826967901 ngân hàng TP Bank. T nhờ Nguyễn Văn Thành, sinh năm: 1990, trú ở: Tổ dân phố 6, phường KX, thành phố BM chuyển số tiền 3.500.000 (ba triệu năm trăm ngàn) đồng đến tài khoản của Dũng, Thành đồng ý và không biết việc T nhờ chuyển tiền để mua ma túy đá. Sau khi chuyển tiền xong, Dũng hẹn T đến khu vực trường cấp III Cao Bá Quát, xã Ea Tu, thành phố BM, tỉnh Đắk Lắk. T bắt taxi đến điểm hẹn thấy nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đeo khẩu trang đi đến ném xuống đường chỗ T đang đứng một gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thế màu trắng, T nhặt lên cất rồi đi về nhà ở địa chỉ: NTP, phường TC, thành phố BM, tỉnh Đắk Lắk dùng cân tiểu li điện tử màu đen chia thành các gói nhỏ rồi cất hai gói ma túy đá ở phòng ngủ để có ai hỏi mua thì bán. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, T đang ở nhà thì đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố BM phối hợp với Công an phường TC, thành phố BM đến kiểm tra. T tự giác giao nộp hai gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và khai nhận là ma túy đá cất giấu với mục đích bán. Lực lượng Công an niêm phong số ma túy trên theo quy định của pháp luật .
Tại bản kết luận giám định số: 860/KL-KTHS ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể bên trong hai gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,6374 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 2,5901 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HSST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 29/8/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/01/2023, bị cáo Nguyễn Đức T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đức T 04 (bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 151 BLHS là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/8/2022, tại số nhà: NTP, phường TC, thành phố BM, tỉnh Đắk Lắk. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố BM phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức T có hành vi cất giấu 2,6374gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Đức T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 04 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo có nhân thân xấu và có 01 tiền án chưa được xóa án tích về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 10/2023/HSST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk là phù hợp.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2023/HSST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 04 (Bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 29/8/2022.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 77/2023/HS-PT về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 77/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về