Bản án 77/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 77/2020/HS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Anh T - sinh ngày 24 tháng 4 năm 1984 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: xóm 9 xã P, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tấn C và bà Phạm Thị B; vợ Nguyễn Thị Nh sinh năm 1986 và có 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: ngày 15/3/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản", ngày 24/5/2012 bị TAND thành phố Vinh xử phạt 07 tháng tù về tội "Bắt, giữ người trái pháp luật", ngày 01/7/2020 bị TAND tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội "Đánh bạc"; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2020. Có mặt.

Bị hại: Anh Bạch Văn H – sinh năm 1983 Địa chỉ: xóm 8, xã P, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Đặng Bùi Th, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Xóm T, xã T, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Xóm 6, xã Th, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Chị Trương Thị Th, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Xóm P, xã T, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Trương Hồ Ph, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Khối 1, phường H, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sau khi có đơn tố giác của anh Bạch Văn H, vào lúc 21 giờ 40 phút ngày 18/5/2020 Phạm Anh T đã đến Cơ quan điều tra Công an tỉnh Nghệ An để đầu thú, khai nhận về hành vi chiếm đoạt tài sản của anh H và giao nộp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus + 01 thẻ ATM số 9704151524263994 do Ngân hàng Công thương Việt Nam phát hành mang tên chủ thẻ Phạm Anh T, số tài khoản 108869130484 còn số dư tại thời điểm ngày 18/5/2020 là 2.043.000 đồng.

T khai nhận: ngày 10/5/2020, Bạch Ngọc Hoàng nhờ T đi lấy chiếc ô tô Chevrolet Spark của anh Vương Đình Huấn về. Khi lấy được ô tô, do không thấy Hoàng đi theo sau nên T điều khiển xe đi về nhà mình trước. Về đến nhà, T nghe có tiếng chuông của chiếc điện thoại di động Iphone6 Plus trên xe nên đã lấy xem. T nhập mật khẩu ngẫu nhiên "0000" thì mở được máy và phát hiện đó là máy của anh H. Thấy trong các thư mục có mục "Internet Banking", T dò mật khẩu và thấy mật khẩu "1983" đăng nhập được, hiển thị tài khoản của anh H trong Ngân hàng Hàng hải số tiền 207.982.150 đồng. Do đang túng thiếu, nợ nần chồng chất nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền của anh H. T thử và đã đặt lệnh chuyển thành công số tiền 150.000.000 đồng từ tài khoản của anh H vào tài khoản của mình tại Ngân hàng Công thương Việt Nam số 108869130484.

Sau khi chiếm đoạt được 150.000.000 đồng, số dư trong tài khoản tăng lên 150.050.250 đồng. T rút tiền mặt tại cây ATM và chuyển khoản để trả nợ, mua các gói dịch vụ Game trực tuyến và chỉ để lại số tiền 2.043.000 đồng trong tài khoản (số tiền này đã bao gồm 50.250 đồng của bị cáo). Cụ thể: trả tiền chuộc xe mô tô cho anh Nguyễn Văn T 23.000.000 đồng + anh Đặng Bùi Th 11.400.000 đồng + cho anh Trương Hồ Ph 11.000.000 đồng, trả nợ chị Trương Thị Th 13.500.000 đồng và mua 01 chiếc nhẫn vàng 3.700.000 đồng ở tiệm vàng Tất Năm (chiếc nhẫn T đã làm rơi không tìm được); số tiền còn lại trả tiền mua Game trực tuyến.

Riêng chiếc điện thoại của anh H thì T đã cài đặt lại và sử dụng.

Quá trình điều tra anh Bạch Văn H trình bày: đêm 08/5/2020, anh H ngồi trên xe ô tô Chevrolet Spark do anh Vương Đình Huấn điều khiển đến điểm hẹn để đi đánh bạc tại xã Nghi Xuân. Sau khi rời xe Spark, anh H để lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus màu bạc ở túi sau ghế lái. Do bị Công an bắt tạm giữ nên đến ngày 18/5/2020, sau khi được thả tự do, biết điện thoại bị mất nên anh H đã đến Ngân hàng kiểm tra thì phát hiện mất số tiền 150.000.000 đồng và tố giác đến Cơ quan điều tra công an tỉnh Nghệ An. Anh H đã được nhận lại chiếc điện thoại và 50.000.000 đồng gia đình T hoàn trả.

Ngày 27/5/2020, chị Trương Thị Th giao nộp số tiền 13.500.000 đồng, ngày 26/5/2020 anh Đặng Bùi Th giao nộp số tiền 1.400.000 đồng và cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu anh Bạch Văn H.

Theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự UBND huyện Nghi Lộc kết luận: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus màu bạc trị giá 3.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 81/CT-VKS-NL ngày 05/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận đã chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus và số tiền 150.000.000 đồng của anh Bạch Văn H. Bị cáo trộm cắp do quá túng thiếu vì nợ nần và ham mê game trực tuyến nhưng đã nhờ gia đình trả lại cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng, tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại và thẻ ATM có số tiền 2.043.000 đồng cùng số tiền 9.500.000 đồng để cơ quan điều tra trả lại cho bị hại. Bị cáo có cha đẻ ông Phạm Tấn C là thương binh, được tặng thưởng nhiều huân huy chương. Bị cáo chấp nhận trả lại cho anh H số tiền 75.600.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại anh Bạch Văn H có mặt tại phiên tòa thừa nhận đã nhận lại số tiền 74.400.000 đồng và yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền chiếm đoạt còn thiếu là 75.600.000 đồng. Anh H không đồng ý nhận tiền từ những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà chỉ yêu cầu bị cáo trả toàn bộ. Anh H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa đã thừa nhận trong quá trình điều tra không biết số tiền mà bị cáo T trả lại là tài sản do trộm cắp mà có. Anh Đặng Bùi Th đã giao nộp số tiền 1.400.000 đồng, chị Trương Thị Th đã giao nộp số tiền 13.500.000 cho cơ quan điều tra. Số tiền còn lại gồm: 10.000.000 đồng (do anh Th giữ), 11.000.000 đồng (do anh Trương Hồ Ph giữ) và 23.000.000 đồng (do anh Nguyễn Văn T giữ) thì đã tiêu hết và chưa có để giao nộp.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử đề nghị: giữ nguyên việc truy tố bị cáo Phạm Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; áp dụng Điều 56 tổng hợp hình phạt 18 tháng tù với bản án số 98/2020/HSPT ngày 01/7/2020 của TAND tỉnh Nghệ An buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 75.600.000 đồng cho anh Bạch Văn H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: ngày 10/5/2020 tại xóm 9 xã P, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Phạm Anh T đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Bạch Văn H 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus trị giá 3.500.000 đồng và số tiền 150.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát huyện Nghi Lộc truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội ở mức độ lớn, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Nghi Lộc. Mục đích phạm tội của bị cáo là để trả nợ cá nhân và chơi game giải trí trực tuyến. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng 3 lần bị Tòa án các cấp kết tội nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội nên cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, phòng ngừa tái phạm và cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 18 tháng tù về tội "Đánh bạc" tại Bản án số 98/2020/HSPT ngày 01/7/2020 của TAND tỉnh Nghệ An để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Tuy nhiên cũng cần xem xét, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như: quá trình điều tra và tại phiên toà khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải (là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự); đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại (điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự). Sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú và có bố là ông Phạm Tấn C là người có công với cách mạng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự). Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sớm quay về làm người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: anh Bạch Văn H yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 75.600.000 đồng là có căn cứ nên cần buộc bị cáo trả lại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong tài khoản của bị cáo vẫn còn lưu giữ 1.992.750 đồng (=2.043.000 đồng - 50.250 đồng) là vật chứng vụ án (tiền bị cáo chiếm đoạt được) nên cần trích số tiền này để trả lại cho anh H. Do vậy, bị cáo còn phải trả lại cho anh H số tiền là 73.607.250 đồng.

Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trương Hồ Ph, anh Đặng Bùi Th, anh Nguyễn Văn T thì do bị hại anh H không yêu cầu nhận tiền hoàn trả từ họ nên Hội đồng xét xử không xét.

Về vật chứng:

Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone6 Plus là vật bị chiếm đoạt đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

Số tiền 14.900.000 đồng do chị Th và anh Th giao nộp đã trả lại cho anh H là đúng pháp luật.

Chiếc thẻ ATM số 9704151524263994 do Ngân hàng Công thương Việt Nam phát hành mang tên chủ thẻ Phạm Anh T là công cụ hỗ trợ thực hiện hành vi phạm tội hiện đang được lưu kèm hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục được lưu giữ để làm chứng cứ chứng minh tội phạm.

Về vấn đề khác: anh Th, anh Ph, anh T, chị Th khi nhận được số tiền do bị cáo trả nhưng không biết đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo trình bày có sử dụng 3.500.000 đồng tiền chiếm đoạt được mua 01 chiếc nhẫn vàng tại hiệu vàng Tất Năm và đã làm mất. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại hiệu vàng Tất Năm nhưng do không lưu giữ dữ liệu người mua hàng nên không có cơ sở để điều tra nội dung khai báo này.

Đối với những giao dịch mua game trực tuyến giữa bị cáo với các nhà cung cấp dịch vụ là giao dịch ngay tình nên không xem xét.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.

Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Phạm Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Anh T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù về tội "Đánh bạc" tại Bản án số 98/2020/HSPT ngày 01/7/2020 của TAND tỉnh Nghệ An, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 18/5/2020 và được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 21/6/2019 đến ngày 27/6/2019 trong Bản án số 98/2020/HSPT ngày 01/7/2020 của TAND tỉnh Nghệ An.

- Về biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 579, Điều 580 của Bộ luật dân sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Trích số tiền 1.992.750 đồng từ tài khoản số 108869130484 của Phạm Anh T tại Ngân hàng Công thương Việt Nam để trả lại cho anh Bạch Văn H.

Buộc bị cáo Phạm Anh T phải trả cho anh Bạch Văn H số tiền 73.607.250 (Bảy mươi ba triệu sáu trăm linh bảy ngàn hai trăm năm mươi) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành bản án có hiệu lực pháp luật của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền 73.607.250 đồng, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về án phí: Bị cáo Phạm Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.680.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 77/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;