Bản án 77/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 77/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 11 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2020/TLST-HS ngày 02/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXST-HS ngày 28/7/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Huy H, sinh năm 1988; HKTT: thôn B, thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Huy T, sinh năm 1946 và con bà Phùng Thị C, sinh năm 1949; Có vợ Lê Thị M, sinh năm 1987 (Đã ly hôn năm 2009); Con: Chưa có; Tiền sự, tiền án: không;

Nhân thân:

+ Tại Bản án số 22/HSST ngày 29/6/2009 bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong Bản án ngày 15/01/2010.

+ Tại Bản án số 10/2011/HSST ngày 28/01/2011 bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong Bản án ngày 10/8/2012.

+ Tại Bản án số 173/2015/HSST ngày 08/9/2015 bị TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/8/2017. Chấp hành xong án phí và tịch thu xung quỹ nhà nước tổng cộng 600.000 đồng ngày 1/6/2018.

+ Ngày 28/4/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 18/5/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ 28/4/2020 đến nay. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – Có mặt

2. Trịnh Đức T, sinh năm 1984; HKTT: thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giao : Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Đức T, sinh năm 1958 (Đã chết) và con bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1962; Có vợ Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1984; Có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền sự: không có.

Tiền án có 01: Tại Bản án số 98/HSST ngày 18/6/2018 bị TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/01/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 21/4/2020. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – Có mặt

3. Vương Quang T1, sinh năm 1985; HKTT: thôn Đ, xã A, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giao: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Quang T, sinh năm 1959 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960; Có vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1992; Có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền sự, tiền án: Chưa có Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23/4/2020 đến nay. Hiện nay bị cáo đang tại ngoại – Có mặt

4. Dương Xuân Đ, sinh năm 1989; HKTT: thôn C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giao: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Xuân V, sinh năm 1964 và con bà Dương Thị H, sinh năm 1966; Có vợ Nguyễn Thị M, sinh năm 1991; Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền sự, tiền án: Chưa có Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23/4/2020 đến nay. Hiện nay bị cáo đang tại ngoại – Có mặt

* Bị hại:

- Chị Vũ Thị V, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

- Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 08/3/2020, Nguyễn Huy H điều khiển xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, lắp biển kiểm soát (BKS): 99E1 - 086.44 đi đến nhà Trịnh Đức T rủ đi trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở T đến đường liên xã C – Đ thuộc địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trên đường đi H dừng xe, lấy 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T”, mũi vam nhọn, dẹt, kích thước (15,3 x 9)cm của mình để sẵn trong cốp xe mô tô, đút vào túi quần bên phải của H đang mặc và tiếp tục đi. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi đến đường làng thôn H, xã L, H phát hiện thấy ở khu vực rìa đường phía trước cửa nhà chị Vũ Thị V đang dựng 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690. Quan sát thấy không có người, H điều khiển xe mô tô đến gần vị trí chiếc xe mô tô của chị V rồi xuống xe, sau đó T điều khiển xe mô tô Honda Wave, BKS: 99E1 - 086.44 lên phía trước cách đó khoảng 20 mét để quan sát, cảnh giới. Thấy xe khóa cổ, không khóa càng, H liền lấy chiếc vam phá khóa ra chọc mũi vam vào ổ khóa điện, dùng tay vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ thì mở được ổ khóa điện của xe, đề nổ máy. Sau đó, H và T mỗi người điều khiển 01 xe mô tô bỏ chạy theo đường cũ về hướng cầu H. Khi đến đoạn đường vắng gần Cầu H, để tránh bị phát hiện H và T đã dùng tay vặn các con ốc tháo chiếc BKS: 99H6 – 8690 vứt xuống sông Đuống rồi điều khiển xe về nhà H cất giấu. H đưa cho T 500.000 đồng và nói là đưa trước tiền bán xe rồi chở T về nhà.

Khoảng 4 đến 5 ngày sau, vào buổi chiều H gặp Vương Quang T1 ở nhà xe của công ty JH Cost thuộc khu công nghiệp H, thành phố Bắc Ninh. Tại đây, H nói với T1 “Em có con xe Wave màu đỏ, không có biển số, không giấy tờ vừa nhảy được ở dưới Tiên Du muốn bán anh có mua không”. Thấy H nói vậy, T1 hỏi lại “Xe làm sao mà không có giấy tờ” thì H nói “Đây là xe vừa trộm cắp được bên Tiên Du”. Nghe H nói thế, T1 hiểu rõ đó là xe mà H trộm cắp được mà có và T1 nói không mua. Nhưng sau đó T1 lại hỏi H “Bán bao nhiêu” thì H trả lời bán 2.000.000 đồng và nói “Anh xem có ai muốn mua thì báo em”. Lúc đó, T1 nói để về xem có ai mua thì T1 giới thiệu cho H. Ngày hôm sau, T1 xuống nhà Dương Xuân Đ và nói với Đ là “Có người em làm cùng công ty, có chiếc xe Wave màu đỏ, không giấy tờ, không có biển số là xe “Nhảy” (tức là xe trộm cắp) muốn bán với giá 2.000.000 đồng, có mua không” thì Đ nói “Bảo nó mang xe xuống đây xem xe đã, được thì mua”. Sáng ngày hôm sau, T1 gặp H tại công ty và nói “Có thằng em muốn mua xe, chiều tối em mang xe xuống nhà anh để nó xem xe”. Đến chiều tối cùng ngày, H điều khiển chiếc xe mô tô đã trộm cắp nêu trên đến nhà T1 và dựng ở sân. Thấy H mang xe đến, T1 liền dùng chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus của mình gọi vào chiếc điện thoại di động Iphone 6 của Đ bảo đến xem xe, tuy nhiên Đ bận không xuống được, hẹn ngày mai sẽ sang xem xe. Sau đó, H gửi xe mô tô đã trộm cắp tại nhà T1 và mượn 500.000 đồng hẹn mai bán được xe sẽ trả. Chiều hôm sau H, Đ đến nhà T1 để giao dịch mua bán xe. Quá trình kiểm tra xe, Đ thấy xe đã bị phá ổ khóa điện, không có biển kiểm soát, không giấy tờ nhưng xe vẫn hoạt động bình thường. Đ hỏi H “bán xe bao nhiêu”, H nói bán 2.000.000 đồng. Đ mặc cả có bớt không nhưng H không đồng ý, H nói với Đ là xe này vừa “Nhảy” được ở bên Tiên Du. Qua T1 giới thiệu trước đó, rồi tự mình kiểm tra xe và nghe H nói vậy thì Đ biết rõ được chiếc xe trên là do H trộm cắp ở bên Tiên Du mà có. Nhưng do ham rẻ Đ vẫn đồng ý mua rồi trả cho H 2.000.000 đồng. Cầm tiền xong, H đi ra chỗ T1 trả 500.000 đồng đã vay ngày hôm trước rồi về. Sau đó, Đ có nói với T1 mua lại chiếc xe trên với giá 2.000.000 đồng và nhờ T1 đi hộ chiếc xe của Đ đi đến, còn Đ điều khiển chiếc xe vừa mua của H về nhà. Quá trình sử dụng chiếc xe này, Đ nhặt được chiếc biển kiểm soát 30N4 – 2671 ở rìa đường và lắp vào chiếc xe trên sử dụng. Khoảng vài ngày sau khi bán được xe, H gặp T và đưa thêm cho T 500.000 đồng tiền đã bán được chiếc xe trộm cắp. T1 bộ số tiền có được từ việc bán chiếc xe trên, H và T đã tiêu cá nhân hết.

Sau khi bị mất chiếc xe mô tô Honda Wave, BKS: 99H6 – 8690, do công việc bận nên đến ngày 19/4/2020 chị Vũ Thị V mới làm đơn trình báo gửi Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du. Ngày 21/4/2020, Dương Xuân Đ đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du: 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, lắp biển kiểm soát: 30N4 – 2671. Tiếp đó, cùng ngày 23/4/2020, Vương Quang T1 đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, Dương Xuân Đ đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6.Tại Kết luận định giá tài sản số 36/KL-ĐGTSTTHS ngày 21/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: “01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690; số máy: HC09E - 6025342; số khung 076Y025288, đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 5.000.000 đồng” Quá trình điều tra, Nguyễn Huy H còn khai nhận hành vi trộm cắp tài sản ngày 04/3/2020 tại thôn L, xã V, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, cụ thể như sau: Khoảng 17 giờ ngày 04/3/2020, sau khi hết giờ làm tại công ty H mang theo 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T” mũi vam nhọn, dẹt, kích thước (15,3 x 9)cm do mình tự chế, đút vào túi quần đang mặc. Sau đó H đi bộ ra cổng công ty bắt xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi sang địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh để trộm cắp xe mô tô làm phương tiện đi lại. Khi đi bộ đến thôn L, H phát hiện thấy khu vực rìa đường trước cửa nhà ông Nguyễn Thanh P đang dựng 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, BKS: 99Z1 – 7926. Quan sát thấy không có người, H nhanh chóng tiến lại gần chiếc xe mô tô trên, thấy xe chỉ khóa cổ, không khóa càng, H liền dùng chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ T chọc vào ổ khóa điện của xe, dùng tay vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ mở ổ khóa điện của chiếc xe. Sau đó, H cất chiếc vam phá khóa vào trong túi quần rồi nhanh chóng quay đầu xe, đề nổ máy và đi theo đường Tỉnh lộ 287 ra đường Quốc lộ 38. Khi đến một đoạn đường vắng gần Cầu H, H dùng tay tháo chiếc biển kiểm soát của xe rồi vứt xuống sông Đuống. Sau đó, H điều khiển chiếc xe mô tô về nhà làm phương tiện đi lại, được vài ngày H nhặt được chiếc biển kiểm soát 99E1 – 086.44 ở rìa đường và lắp vào chiếc xe đã trộm cắp này sử dụng. Tiếp đó H đã thay ổ khóa mới cho chiếc xe này. Đến ngày 21/4/2020 ông Nguyễn Thanh P làm đơn trình báo gửi Cơ quan điều tra.

Ngày 19/4/2020, Nguyễn Huy H đã giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, số khung: 12109Y232134, số máy: HC12E1432922, lắp BKS: 99E1 - 086.44 cùng chìa khóa của xe, tài sản đã qua sử dụng; 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T”, mũi vam nhọn, dẹt, kích thước: (15,3 x 9)cm. Ngày 28/4/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Thành đã bàn giao những vật chứng này cho Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 37/KL-ĐGTSTTHS ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: “01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu đen, BKS: 99Z1 – 7926, số máy HC12E – 1432922, số khung12109Y232134. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 8.000.000 đồng”.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 58/CT - VKS ngày 01/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyên Tiên Du truy tô bị cáo Nguyễn Huy H, Trịnh Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Vương Quang T1, Dương Xuân Đ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo H khai nhận nội dung Cáo trạng truy tố là đúng. Chiều ngày 04/3/2020, một mình bị cáo sử dụng vam phá khóa trộm cắp 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, BKS: 99Z1 – 7926 của ông P. Tiếp đó ngày 08/3/2020 bị cáo điều khiển xe mô tô chở bị cáo T trộm cắp xe của mô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690 của chị V. Sau đó bị cáo thông qua bị cáo T1, bán chiếc xe mô tô trộm cắp của chị V cho bị cáo Đ với giá 2.000.000 đồng. Bị cáo sau đó chia cho bị cáo T 1.000.000 đồng. Khi bán xe bị cáo có nói rõ nguồn gốc chiếc xe mô tô do trộm cắp mà có.

Bị cáo T trình bày tại phiên tòa lời khai của bị cáo H là đúng. Sáng ngày 08/3/2020 bị cáo đứng cảnh giới để bị cáo H phá khóa xe mô tô lấy chiếc xe mô tô của chị V. Bị cáo được chia 1.000.000 đồng và đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo T1, Đ lần lượt trình bày lời khai của bị cáo H là đúng. Các bị cáo đều thừa nhận khi giao dịch mua bán biết nguồn gốc chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690 do bị cáo H trộm cắp mà có.

Bị hại là chị V, ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Ngày 15/5/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại ông P 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, không có biển số, số khung: 12109Y232134; số máy: HC12E1432922 và trả lại chị V 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, không có biển số, số máy: HC09E-6025342, số khung:

076Y025288. Đối với những chiếc biển kiểm soát của hai chiếc xe mô tô trên, do giá trị tài sản nhỏ nên ông P và chị V không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 58/CT- VKS ngày 01/7/2020. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1/Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Huy H, Trịnh Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; các bị cáo Vương Quang T1, Dương Xuân Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2/ Hình phạt và điều luật áp dụng:

*Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2020.

*Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Đức T từ 10 tháng đến 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

*Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vương Quang T1 từ 6 tháng đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Xuân Đ từ 6 tháng đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

4/ Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T”, mũi vam nhọn, dẹt, kích thước (15,3 x 9)cm - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus, màu đồng kèm theo simcard và 01 chiếc điện thoại Iphone 6, màu ghi kèm theo simcard.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo sau khi nghe luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thừa nhận có tội và không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giơ 30 phút ngay 04/3/2020, tại khu vực trước cửa nhà ông Nguyễn Thanh P ở thôn L, xã V, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, một mình bị cáo Nguyễn Huy H đã lén lút chiếm đoạt của ông P 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu đen, BKS: 99Z1 – 7926 trị giá 8.000.000 đồng. Sau đó, khoảng 10 giờ ngày 08/3/2020 tại khu vực trước cửa nhà anh Vũ Sỹ V1 ở thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, các bị cáo Nguyễn Huy H và Trịnh Đức T đã có hành vi chiếm đoạt của chị Vũ Thị V 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690 trị giá 5.000.000 đồng. Bị cáo Vương Quang T1 biết rõ Nguyễn Huy H có 01 chiếc xe Wave màu đỏ do trộm cắp được mà có nhưng vẫn giới thiệu cho Dương Xuân Đ mua. Sau đó tại nhà T1, Đ đã mua chiếc xe mô tô do H trộm cắp của chị V với giá 2.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo H, T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt nên Cáo trạng truy tố bị cáo T, H theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đối với hành vi của các bị cáo T1, Đ không hứa hẹn trước, biết rõ chiếc xô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, BKS: 99H6 – 8690 do bị cáo H, T trộm cắp mà có nên Cáo trạng truy tố về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ.

Trong vụ án này có thể thấy bị cáo H có vai trò lớn nhất khi là người khởi xướng, rủ rê bị cáo T đi trộm cắp tài sản. Bị cáo H là người trực tiếp phá khóa lấy tài sản và trực tiếp mang đi bán kiếm lời. Đối với bị cáo T có vai trò hạn chế hơn, bị cáo đứng cảnh giới cho bị cáo H trộm cắp tài sản và cũng được hưởng lợi từ hành vi phạm tội. Bị cáo T1 tuy không mua tài sản do bị cáo H, T trộm cắp mà có nhưng đã giới thiệu cho bị cáo Đ mua tài sản. Quá trình giới thiệu, mua chiếc xe mô tô Honda Wave, BKS: 99H6 – 8690 các bị cáo T1, Đ đều biết là tài sản do trộm cắp mà có nên phải chịu đồng phạm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Hành vi phạm tội của các bị cáo H, T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của các bị cáo T1, Đ gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Do vậy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi các bị cáo đã phạm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo H, T có nhân thân rất xấu, bị cáo Đ, T1 có nhân thân tốt. Ngày 29/6/2009 bị cáo H bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 28/01/2011 bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tiếp đó ngày 08/9/2015 bị cáo H bị TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra ngày 28/4/2020 bị cáo H bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 18/5/2020 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo H không có tiền án nhưng Hội đồng xét xử sẽ đánh giá nhân thân bị cáo khi quyết định hình phạt. Đối với bị cáo T ngày 18/6/2018 bị TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tính đến nay chưa được xóa án tích nên xác định có 01 tiền án.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo T1 và Đ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo H và Đ tự nguyện giao nộp lại 02 chiếc xe là vật chứng vụ án để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo T chưa được xóa án tích lại phạm tội mới do lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo H trong khoảng thời gian từ 04/3/2020 đến ngày 08/3/2020 đã hai lần trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, trị giá tài sản mỗi lần trộm cắp đều trên 2.000.000 đồng nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo H, T có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử nhưng không lấy làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân. Qua đây thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo riêng và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo T1, Đ có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, BKS: 99Z1 – 7926, số khung: 12109Y232134; số máy: HC12E1432922 mang tên chủ sở hữu chị Nguyễn Thị H1 đã bán cho ông Nguyễn Thanh P. Ngày 15/5/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã trả lại ông P 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đen, không có biển số và trả cho chị V 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu đỏ - đen, không có biển số. Ông P và chị V đã nhận lại những tài sản trên. Đối với những chiếc biển kiểm soát của hai chiếc xe mô tô trên, sau khi trộm cắp các bị cáo H, T đã tháo và vứt bỏ, hiện chưa tìm lại được. Do giá trị tài sản nhỏ nên ông P và chị V không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T”, mũi vam nhọn, dẹt, kích thước (15,3 x 9)cm là công cụ bị cáo H sử dụng trong quá trình phạm tội, giá trị sử dụng thấp cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 Plus và chiếc điện thoại Iphone 6 các bị cáo T1, Đ sử dụng để liên lạc trong quá trình phạm tội tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc biển kiểm soát 30N4 – 2671, qua tra cứu, xác minh đã làm rõ đăng ký mang tên chị Trần Thảo L. Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, chị L cho biết năm 2010 chị có mua một chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu trắng đen, sau đó đăng ký biển kiểm soát 30N4 – 2671 mang tên mình. Đến năm 2019, chiếc xe bị tai nạn và hư hỏng nhiều bộ phận nên chị L đã bán lại chiếc xe trên cùng BKS cho một người đàn ông thu mua phế liệu qua đường, họ tên, địa chỉ người mua chị L không biết. Đối với chiếc biển kiểm soát 99E1 - 086.44 qua tra cứu, xác minh đã làm rõ đăng ký mang tên anh Nguyễn Văn T. Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, anh T cho biết năm 2013 anh T có mua lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu PIAGGO, sơn màu trắng tại một cửa hàng mua bán xe ở thị xã Từ Sơn. Sau đó đăng ký lại mang tên mình và được cấp BKS: 99E1 - 086.44. Đến giữa năm 2019 anh T đã bán lại chiếc xe mang biển số trên cho một cửa hàng mua bán xe cũ tại thành phố Hà Nội nhưng không còn giữ được giấy tờ mua bán và không nhớ được địa chỉ của cửa hàng đã bán chiếc xe trên. Đối với những chiếc BKS: 30N4- 2671 và BKS: 99E1 - 086.44 chưa làm rõ được chủ sở hữu của 02 chiếc BKS trên nên tách để lại Cơ quan điều tra để tiếp tục làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo H và T khai nhận: Ngày 18/4/2020, có bắt xe Bus đi từ Thuận Thành sang khu vực bến xe thị xã Từ Sơn, mỗi người mua một gói ma túy của những người không quen biết, rồi mang ra khu vực cánh đồng vắng cách bến xe thị xã Từ Sơn khoảng 5km và sử dụng. Do không xác định được người bán, địa điểm cụ thể đã sử dụng ma túy nên không đủ căn cứ xác định thẩm quyền để xử lý theo quy định.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Huy H, Trịnh Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; các bị cáo Vương Quang T1, Dương Xuân Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Về hình phạt và điều luật áp dụng:

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2020.

*Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Đức T 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

*Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự: Xử phạt bị cáo Vương Quang T1 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Xuân Đ 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tạm giam các bị cáo Nguyễn Huy H, Trịnh Đức T mỗi bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Giao bị cáo Vương Quang T1 cho UBND xã A, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; giao bị cáo Dương Xuân Đ cho UBND thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hính sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại hình chữ “T”, mũi vam nhọn, dẹt, kích thước (15,3 x 9)cm - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus, màu đồng bênh trong lắp simcard, đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại Iphone 6, màu ghi, bên trong có lắp simcard, đã qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/72020) 4.Về án phí áp dụng Điều 135, Điều 136; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 77/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;