Bản án 77/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 77/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 6 năm 2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐXXST-HS ngày 21/5/2019 đối với bị cáo họ và tên:

Trần Quang K, tên gọi khác: Không, giới tính Nam; sinh năm 1995 tại tỉnh Cà Mau; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã V, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: phụ hồ; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Đ và bà Trần Thu T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 13/01/2019, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện H, tỉnh Long An. (vắng mặt)

2. Bà Trần Ngọc A, sinh năm 1981; địa chỉ: Đường X, xã S, huyện L, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)

Người làm chứng: Ông Lê Quốc C, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp H, xã V, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/01/2019, trước nhà số K, khu phố A, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Quận 7 phát hiện Trần Quang K điều khiển xe gắn máy biển số 37S1 – 8577 chở Lê Quốc C; qua kiểm tra phát hiện, thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của K có 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, K khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 13/01/2019, K điều khiển xe máy, biển số 37S1-8577 đến đường Đ, quận T mua 01 gói ma túy của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 200.000 đồng, mang về nhà để sử dụng. Đến 20 giờ cùng ngày, K rủ Lê Quốc C đi uống cà phê ở huyện N. Sau khi uống cà phê, K điều khiển xe chở C đi về thì bị Công an Quận 7 kiểm tra và bắt quả tang.

Kết luận giám định số 403/KLGĐ-H ngày 18/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1338g (không phẩy một ba ba tám gam), loại Methamphetamine.”

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, số Imel: 356246/04/786225/4;

- 01 xe gắn máy có biển số 37S1-8577, số máy 10279399, số khung 20813810. Qua xác minh biển số xe 37S1-8577 do bà Trần Ngọc A đứng tên đăng ký nhưng có số máy 5C63-340376, số khung 5C630AY-340317; bà A cùng gia đình không còn cư trú tại địa phương, chuyển đi đâu không rõ. Xác minh số khung và số máy của chiếc xe thì xe có số máy 1P53FMH-10279399, số khung MG110-28013810 là của ông Nguyễn Văn M đứng tên đăng ký chủ sở hữu, được cấp biển số 62H3-3779. Ông M khai đã bán chiếc xe này cho người thanh niên tên T1 (không rõ nhân thân lai lịch) vào năm 2014 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Theo lời khai bị cáo, chiếc xe bị cáo mua của một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) với giá là 1.500.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo trạng số 87/CT-VKSQ7 ngày 04/5/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 truy tố bị cáo Trần Quang K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ trong túi quần phía trước bên phải bị cáo là ma túy của bị cáo mua, cất giữ nhằm mục đích sử dụng. Chiếc xe gắn máy bị thu giữ có nguồn gốc bị cáo mua của người thanh niên, không làm giấy tờ mua bán.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo Trần Quang K từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy gói ma túy niêm phong và biển số xe 37S1-8577; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen.

Đối với chiếc xe gắn máy gắn có số máy 10279399, số khung 28013810, đề nghị tiếp tục đăng tin trên các phương tiện truyền thông tìm kiếm chủ sở hữu trong thời hạn 60 ngày, quá thời hạn giao cho Ủy ban nhân dân Quận 7 xử lý đối với tài sản vắng chủ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Trần Quang K đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng; theo Kết luận giám định số số 403/KLGĐ-H ngày 18/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1338g (không phẩy một ba ba tám gam), loại Methamphetamine.”. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm, vì tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Song xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy gói ma túy niêm phong vụ số 403/2019/Q7.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, số Imel: 356246/04/786225/4, là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe máy có số máy 10279399, số khung 28013810. Cơ quan điều tra Công an Quận 7 đã gửi văn bản đến báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị đăng tin tìm chủ sở hữu; do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên tiếp tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 60 ngày, hết thời hạn thông báo không có ai đến nhận, giao cho Ủy ban nhân dân Quận 7 xử lý theo quy định.

- Đối với biển số xe 37S1-8577 qua xác minh là biển số xe tự gắn, không phải của chiếc xe gắn máy có số máy 10279399, số khung 28013810, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo K, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 7 tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quang K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Trần Quang K 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2019.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy niêm phong vụ số 403/2019/Q7 và 01 (một) biển số xe 37S1-8577.

2.2. Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, số Imel: 356246/04/786225/4.

2.3. Thông báo trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày trên phương tiện thông tin đại chúng đối với chiếc xe gắn máy có số máy 10279399, số khung 28013810 để tìm chủ xe hợp pháp. Qúa hạn thông báo sẽ giao cho Ủy ban nhân dân Quận 7 xử lý theo qui định về tài sản vắng chủ. (theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 84 ngày 11/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7.)

3. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 77/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:77/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;