Bản án 77/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 77/2018/HS-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2018/TLST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Văn H, sinh năm 1978

Nơi cư trú: 27/34/195 Đinh V, P. Bình H, TP.Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12. Con ông Vũ Văn T, sinh năm 1947 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1950. Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ tư; Có vợ là Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1979; Có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 26/8/2008 bị Công an TP.Hải Dương xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”; Ngày 28/02/2012 bị Công an TP.Hải Dương xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Đánh bạc” (đã nộp ngày 05/3/2012); Ngày 22/01/2015 bị Công an TP.Hải Dương xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Đánh bạc” (đã nộp ngày 06/02/2015). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 09 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1985.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Trung Ng, xã CA, huyện C, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12. Con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1958. Ông H1 là thương binh hạng 4 và được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất. Gia đình có

3 chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1986; Có 02 con, con lớn sinh năm 2009; con nhỏ sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 18/11/2016 bị Phòng CSĐTTP về TTXH (PC45) Công an tỉnh Hải Dương xử lý vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Đánh bạc” (đã nộp ngày 05/12/2016). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 10 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

3. Họ và tên: Đào Xuân V, sinh năm 1969

Nơi cư trú: Thôn Thanh Xá, xã Liên H, huyện G, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10. Con ông Đào Văn V1 và bà Mai Thị Th2 (đều đã chết). ông V được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì. Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ út. Có vợ là Phạm Thị Kh1, sinh năm 1971; Có 02 con, con lớn sinh năm 1990; con nhỏ sinh năm 1995. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 11 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

4. Họ và tên: Bùi Quang Th3, sinh năm 1975.

Nơi cư trú: Số nhà 82 phố Thống Nhất, khu 2, thị trấn GL, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Bùi Quang K (đã chết) và bà Phạm Thị Tu, sinh năm 1953. Gia đình có 04 anh em, bị can là con thứ nhất. Có vợ là Phạm Thị L3, sinh năm 1980; Có 04 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 12 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

5. Họ và tên: Đoàn Văn T1, sinh năm 1982.

Nơi cư trú: Thôn Cổ Ch, xã VH, huyện T, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Đoàn Văn Th4, sinh năm 1960 và bà Bùi Thị L2, sinh năm 1962. Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ là Vũ Thị Qu, sinh năm 1993; Có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 25/6/2010 bị Công an TP.Hải Dương xử phạt hành chính số tiền 1.000.000đ về hành vi “Đánh bạc” (đã nộp ngày 05/7/2010). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 13 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

6. Họ và tên: Nguyễn Tùng L, sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Số 85 Tam G, P.Tr, thành phố Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Nguyễn Mạnh B, sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1955. Gia đình có 6 anh em, bị cáo là con thứ hai; có vợ là Hoàng Thị LH, sinh năm 1988, có 01 con sinh năm 2010. Bị cáo có thời gian tham gia quân đội từ tháng 03/2002 đến ngày 17/01/2004, được công nhận danh hiệu Chiến sỹ giỏi của Trung đoàn Trưởng trung đoàn 141; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết định đình chỉ số 86/QĐ-UBKTTh.U ngày 27/3/2018 của Thành ủy Hải Dương; Tiền án: Chưa. Tiền sự: Ngày 17/11/2017 bị Công an phường Việt Hòa, TP.Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” (QĐXP số 04 ngày 17/11/2017) với số tiền 1.000.000đ (đã nộp ngày 17/11/2017). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 đến ngày 06/01/2018. Hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 14 ngày 16/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.

Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Tiến Gi, sinh năm 1974;

Cư trú tại: Khu 19, phường Ng, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Vũ Trung Th5, sinh năm 1987;

Cư trú tại: 139 Ngô Qu, phường Tân B, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

3. Anh Đoàn Văn Tr, sinh năm 1997;

Cư trú tại: 139 Ngô Qu, phường Tân B, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 63/VKS-HS ngày 15/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương truy tố Vũ Văn H, Đào Xuân V, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Tùng L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự với căn cứ: Vũ Văn H, Đào Xuân V, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Tùng L là bạn bè quen biết nhau từ trước. Khoảng 18 giờ ngày 03/01/2018, trong khi ăn liên hoan, do biết Trần Tiến Gi, HKTT: Khu 19, P.Ng, TP.Hải Dương (là bạn của V) có thuê P.403 của khách sạn Thanh Bình tại 139 Ngô Qu, P.Tân B, TP.Hải Dương để nghỉ nên V hỏi Gi cho mượn phòng nghỉ để tắm. Gi đồng ý cho V mượn phòng còn Gi đi chơi với bạn. Khoảng 21 giờ cùng ngày, H, Th3, T1, Kh, L và V cùng rủ nhau về P.403 khách sạn Thanh Bình để nghỉ. Tại đây cả nhóm thấy có 01 bộ bài tú lơ khơ (đã qua sử dụng) để dưới nền nhà nên cùng nhau đánh bạc, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh 3 cây. Các đối tượng đã sử dụng 36 quân bài lá (từ A đến 9), người cầm chương sẽ chia cho mỗi người 3 lá bài, người chơi sẽ đặt chống cửa mỗi ván thấp nhất là 50.000đ, cao nhất tùy theo người chơi thỏa thuận với người cầm chương; sau đó người chơi sẽ cầm bài lên và tính điểm, quy định 10 điểm là to nhất, 01 điểm là thấp nhất (nếu bằng điểm sẽ tính theo chất thứ tự từ cao đến thấp: rô, cơ, bích và tép). Người nào thấp điểm hơn người cầm chương thì sẽ mất số tiền đã đặt chống cửa cho người cầm chương còn người nào cao điểm hơn người cầm chương thì người cầm chương sẽ trả cho người đó bằng số tiền đã đặt cửa, người nào được 10 điểm thì sẽ thay người cầm chương, quy định 9 và 10 điểm sẽ nhân đôi. Cả nhóm ngồi đánh bạc đến 22h00 cùng ngày thì bị tổ công tác thuộc Đội cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH - Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: Tại dưới chiếu bạc tổng số tiền 8.750.000đ; thu giữ trong túi quần Bùi Quang Th3 số tiền 900.000đ là số tiền Th3 xác định sẽ sử dụng để đánh bạc; thu giữ trong ví của Đoàn Văn T1 số tiền 1.000.000 đồng; trong ví của Đào Xuân V số tiền 1.900.000 đồng, T1 và V đều xác định không sử dụng số tiền trong ví vào việc đánh bạc; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân (đã qua sử dụng).

Vật chứng là 01 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng, trong đó có 36 lá bài từ A đến 9 các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, đang được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố H; Số tiền thu giữ trên chiếu bạc 8.750.000đ và số tiền 3.800.000đ thu giữ trên người các bị cáo Cơ quan CSĐT Công an thành phố H đã gửi vào tài khoản tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Hải Dương để chờ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra các bị cáo Vũ Văn H, Đào Xuân V, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Tùng L đã khai nhận hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức ba cây phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận bản thân biết việc đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức ba cây là trái phép và bị Nhà nước cấm, đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải; xác định Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng; các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn H, Nguyễn Văn Kh, Đào Xuân V, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Nguyễn Tùng L đều phạm tội: “Đánh bạc”; Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 9-12 tháng tù (bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ), bị cáo còn phải chấp hành từ 8 tháng 27 ngày đến 11 tháng 27 ngày tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Kh từ 7-9 tháng tù (bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ), bị cáo còn phải chấp hành từ 6 tháng 27 ngày đến 8 tháng 27 ngày, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s, v khoản 1 Điều 51; Điều 54; ; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng L từ 04-06 tháng tù (bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ); bị cáo còn phải chấp hành từ 03 tháng 27 ngày đến 05 tháng 27 ngày thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Bùi Quang Th3 từ 18 - 21 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 tháng 21 ngày đến 20 tháng 21 ngày, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hành tháng sung quỹ nhà nước trong thời gian chấp hành. Giao bị cáo cho UBND thi trấn GL, huyện GL, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T1 từ 18-21 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 tháng 21 ngày đến 20 tháng 21 ngày, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hành tháng sung quỹ nhà nước trong thời gian chấp hành. Giao bị cáo cho UBND xã VH, huyện TH, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đào Xuân V từ 15-18 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 14 tháng 21 ngày đến 17 tháng 21 ngày, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hành tháng sung quỹ nhà nước trong thời gian chấp hành. Giao bị cáo cho UBND xã LH, huyện GL, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo; Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền các bị cáo từ 10.000.000đ-12.000.000đ sung quỹ nhà nước; Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của BLHS; điểm b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 9.650.000đ là tiền do phạm tội mà có; Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ không còn giá trị sử dụng; Đối với số tiền 1.000.000đ của bị cáo T1, 1.900.000đ của bị cáo V, các bị cáo xác định không sử dụng để đánh bạc, cần trả lại cho các bị cáo. Tuy nhiên, giữ lại để bảo thủ thi hành án. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận thấy như sau:

[1] Về chứng cứ xác định các bị cáo có tội: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của chính các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21h30’ngày 03/01/2018 tại P.403 khách sạn Thanh Bình tại địa chỉ số 139 Ngô Qu, P.Tân B, thành phố H; Vũ Văn H, Đào Xuân V, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Tùng L có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức đánh ba cây. Đến khoảng 22h00’cùng ngày thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH - Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng; tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 9.650.000đ (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức 3 cây nhằm sát phạt nhau bằng tiền với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đã sử dụng tổng số tiền 9.650.000đ vào việc đánh bạc trái phép là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố H. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi, ham chơi đua đòi nên vẫn thực hiện, các bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố các bị cáo về tội danh “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Về tính chất đồng phạm: Đây là vụ án đồng phạm, tuy không có sự chuẩn bị bàn bạc, câu kết chặt chẽ từ trước nhưng cần đánh giá vai trò, vị trí, tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với từng bị cáo.

Đối với bị cáo Vũ Văn H đã bị xử phạt hành chính 03 lần đều về hành vi đánh bạc, là người cầm chương đầu tiên, tham gia tích cực đánh bạc trái phép từ đầu đến khi bị Công an bắt quả tang; số tiền để sử dụng vào việc đánh bạc trái phép nhiều nhất 5.000.000đ. Ngoài ra bị cáo còn cho các bị cáo khác vay tiền để cùng đánh bạc trái phép với mình. Khi bị bắt quả tang thu giữ số tiền của bị cáo cũng nhiều nhất (5.000.000đ), bị cáo xác định đánh bạc thắng 3.000.000đ. Do vậy, xác định H giữ vai trò đầu trong vụ án;

Sau H là bị cáo Nguyễn Văn Kh cũng đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào ngày 18/11/2016, là người tham gia đánh bạc từ đầu và sử dụng số tiền 1.550.000đ vào việc đánh bạc, khi thua hết số tiền bị cáo lại vay 1.000.000đ của H để tích cực tham gia đánh bạc trái phép đến khi bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng thì Kh có số tiền là 2.000.000đ; điều đó chứng tỏ bị cáo ham chơi nên giữ vai trò thứ 2 trong vụ án;

Đối với bị cáo Bùi Quang Th3 khi đến phòng 430 của khách sạn Thanh Bình thấy 5 bị cáo khác đang đánh bạc. Mặc dù bản thân chưa có tiền, tiền sự, trong người không có đồng nào nhưng để thỏa mãn việc đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền nên bị cáo đã vay 2.000.000đ của H để sử dụng vào việc đánh bạc trái phép nên bị cáo giữ vai trò sau bị cáo Kh;

Đối với bị cáo Đào Xuân V và Đoàn Văn T1, mỗi bị cáo sử dụng số tiền 500.000đ vào việc đánh bạc trái phép nên hai bị cáo có vai trò ngang nhau trong vụ án;

Bị cáo Nguyễn Tùng L là người tham gia đánh bạc với số tiền 200.000đ, so với các bị cáo khác là ít nhất. Do vậy vai trò của bị cáo L đánh giá là vai trò sau cùng của vụ án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như phiên toà các bị cáo H, Th3, Kh, V, T1 và L đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo tham gia đánh bạc số tiền không lớn. Vì vậy cả 6 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Th3 và bị cáo V đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại i khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Kh có bố được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất; bị cáo V có bố là thương binh và được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS; bị cáo Nguyễn Tùng L có thời gian tham quân đội được công nhận danh hiệu chiến sỹ giỏi của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1xx nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo; Hội đồng xét xử thấy bị cáo H có nhân thân xấu đã bị xử phạt hành chính 3 lần về hành vi đánh bạc; bị cáo Kh có nhân thân xấu đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc năm 2016 vi phạm Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao; bị cáo Nguyễn Tùng L có tiền sự về hành vi đánh bạc do Công an phường VH, thành phố H xử phạt vào ngày 17/11/2017. Các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân nay lại phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, xác định các bị cáo H, Kh và L đều thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Nên HĐXX, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng và chấp hành pháp luật.

Đối với bị cáo Bùi Quang Th3 và Đào Xuân V; Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đối với Đoàn Văn T1 sử dụng số tiền đánh bạc không lớn. Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng nên HĐXX xét không cần thiết buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng mức án có điều kiện dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình nơi các bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo L có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS. Do vậy, HĐXX có thể áp dụng Điều 54 của BLHS đối với bị cáo để xử bị cáo dưới khung phù hợp quy định pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo để tăng cường tính giáo dục và bổ trợ cho hình phạt chính.

Về biện pháp tư pháp:

- Đối với tổng số tiền đã xác định được các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 9.650.000đ nên cần tuyên tịch thu, sung quĩ Nhà nước toàn bộ số tiền này.

- Đối với số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng chẵn) thu giữ trong ví của Đoàn Văn T1 và 1.900.000đ thu giữ trong ví của Đào Xuân V, các bị cáo đều xác định không sử dụng vào việc đánh bạc nên cần trả lại cho các bị cáo. Tuy nhiên, cần bảo thủ để đảm bảo việc thi hành án đối với các bị cáo T1 và V.

- Đối với bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài (đã qua sử dụng) xét không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo qui định của pháp luật.

- Đối với anh Vũ Trung Th5 là chủ khách sạn Thanh Bình khi có nghi vấn về việc các bị cáo đánh bạc trong khách sạn của mình nên đã trình báo cơ quan Công an, anh Đoàn Văn Tr là nhân viên lễ tân của khách sạn khi cho anh Gi thuê phòng không biết các đối tượng lên phòng đánh bạc, không được ăn chia, hưởng lợi gì nên Cơ quan CSĐT không đề cập hình thức xử lý là phù hợp qui định của pháp luật.

Đối với anh Trần Tiến Gi khi cho V mượn lại phòng 403, anh Gi không biết nhóm bạn của V đánh bạc ở phòng và không được ăn chia, hưởng lợi gì nên Cơ quan CSĐT không đề cập hình thức xử lý là phù hợp qui định của pháp luật.

Về án phí: Các bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn H, Nguyễn Văn Kh, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Đào Xuân V và Nguyễn Tùng L đều phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt chính:

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 08 (Tám) tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ (từ 03/01/2018 đến 06/01/2018). Bị cáo còn phải chấp hành 07 (Bẩy) tháng 27 (Hai bẩy) ngày, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Kh 06 (Sáu) tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ (từ 03/01/2018 đến 06/01/2018). Bị cáo còn phải chấp hành 05 (năm) tháng 27 (Hai bẩy) ngày, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm s, v khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng L 04 (Bốn) tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ (từ 03/01/2018 đến 06/01/2018). Bị cáo còn phải chấp hành 03 (Ba) tháng 27 (Hai bẩy) ngày, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Bùi Quang Th3 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 (Mười bẩy) tháng 21 (Hai mốt) ngày, thời hạn tính từ ngày UBND thị trấn GL, huyện GL, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 05% thu nhập hàng tháng của bị cáo Th3 sung quỹ Nhà nước trong thời gian chấp hành. Giao bị cáo cho UBND thi trấn GL, huyện GL, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T1 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 (Mười bẩy) tháng 21(Hai mốt) ngày, thời hạn tính từ ngày UBND xã VH, huyện TH, tỉnh Hải Dương

nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hành tháng sung quỹ nhà nước trong thời gian chấp hành. Giao bị cáo cho UBND xã VH, huyện TH, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 35; Điều 36 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đào Xuân V 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 ngày tạm giữ quy đổi thành 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 14 (Mười bốn) tháng 21 (Hai mốt) ngày, thời hạn tính từ ngày UBND xã LH, huyện GL, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hành tháng sung quỹ nhà nước trong thời gian chấp hành, giao bị cáo cho UBND xã LH, GL giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

3. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Vũ Văn H 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng chẵn) sung quĩ Nhà nước; Phạt tiền các bị cáo Bùi Quang Th3, Nguyễn Văn Kh, Đào Xuân V, Đoàn Văn T1 và Nguyễn Tùng L, mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước. Thời hạn nộp trong 01 (một) tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

4. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của BLHS; điểm b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 8.750.000 đồng (Tám triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng), được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Văn Kh, Vũ Văn H, Đoàn Văn T1, Nguyễn Tùng L, Bùi Quang Th3, Đào Xuân V, điều tra viên Nguyễn Văn C và dấu của Cơ quan CSĐT Công an TP.Hải Dương, bì số 84A;

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền bị cáo Th3 sử dụng vào việc đánh bạc là 900.000đ (Chín trăm ngàn đồng), được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong, có chữ ký của Bùi Quang Th3, Điều tra viên Nguyễn Văn Qu1 và dấu của Cơ quan CSĐT Công an TP.Hải Dương, bì số 84D;

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân (đã qua sử dụng) do không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại bị cáo Đoàn Văn T1 số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng chẵn) được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong, có chữ ký của Đoàn Văn T1, Điều tra viên Nguyễn Văn Qu1 và dấu của Cơ quan CSĐT Công an TP.Hải Dương, bì số 84B; nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại bị cáo Đào Xuân V số tiền 1.900.000đ (Một triệu chín trăm ngàn đồng) được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong, có chữ ký của Đào Xuân V, Điều tra viên Nguyễn Văn C và dấu của Cơ quan CSĐT Công an TP.Hải Dương, bì số 84C; nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án.

(Tất cả vật chứng nêu trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố H và Chi cục thi hành án dân sự thành phố H).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo H, V, Th3, T1, Kh và L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo Vũ Văn H, Nguyễn Văn Kh, Bùi Quang Th3, Đoàn Văn T1, Đào Xuân V và Nguyễn Tùng L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/4/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 77/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:77/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;