Bản án 77/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 77/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 324/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vương Diễm N, nơi đăng ký hộ khẩu: Số 1/85 đường A1, thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số 7/292 A, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Hải N, nơi cư trú: Số 1/85 đường A1, thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 10 tháng 8 năm 2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Vương Diễm N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Trần Hải N trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường S, quận H, thành phố Hải Phòng vào ngày 14 tháng 3 năm 2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với gia đình anh N tại thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được hai năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, lối sống nên thường xuyên xẩy ra va chạm, đánh cãi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên hiện tại chị và anh Ninh đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Hải N.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 25 tháng 9 năm 2016, ly hôn chị Ngọc đề nghị Tòa án giao con chung cho chị nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Vương Diễm N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Hải N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không lý do và không có quan điểm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy báo, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn và về vấn đề con chung. Chị Vương Diễm N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Bị đơn anh Trần Hải N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập, đủ cơ sở xác định: Chị Vương Diễm N và anh Trần Hải N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 14 tháng 3 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân phường S, quận H, thành phố Hải Phòng, theo quy định tại các điều 8, 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị N và anh N đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nên đã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do và cũng không có quan điểm, điều đó thể hiện anh N không có thiện chí khắc phục mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị N. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị Vương Diễm N xin ly hôn với anh Trần Hải N là có căn cứ cần được chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Chị Vương Diễm N và anh Trần Hải N có 01 con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 25 tháng 9 năm 2016. Hiện con chung Trần Ngọc A dưới 36 tháng tuổi, anh N không có quan điểm về việc nuôi con, chị Ngọc có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con nên căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung Trần Ngọc A cho chị Ngọc nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

 [4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Vương Diễm N không yêu cầu, anh Ninh không có quan điểm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [5] Về tài sản chung: Do chị Vương Diễm N không yêu cầu và anh Trần Hải N không có quan điểm về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [6] Về án phí: Chị Vương Diễm N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vương Diễm N được ly hôn anh Trần Hải N.

2. Về con chung: Giao con chung Trần Ngọc A, sinh ngày 25 tháng 9 năm 2014 cho chị Vương Diễm N nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi dưỡng con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vương Diễm N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Vương Diễm N đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0015332 ngày 14 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn

15 (Mười lăm), ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm), ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 77/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:77/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;