Bản án 765/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 765/2020/HS-PT NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 681/2020/TLPT - HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Lê Thị Mộng Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HSST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Mộng Th, sinh năm 1970, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn H, huyện H (nay là Khu phố 1, phường L, thị xã H), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Cao Đài, quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Ngọc (đã chết) và bà Trần Thị Kim V (đã chết); chồng tên Nguyễn Hữu T, sinh năm 1970; con có 02 người, lớn sinh năm 1992 và nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/4/2020, đến ngày 24/4/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đoàn Trọng N là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2014, bị cáo Lê Thị Mộng Th bắt đầu tổ chức góp hụi tháng để hưởng huê hồng. Đến khoảng cuối năm 2015, nắm bắt tâm lý các hụi viên thường nuôi hụi, ít tham gia khui hụi nên bị cáo thực hiện thủ đoạn gian dối tự ý lấy tên hụi viên để lĩnh hụi mà không được hụi viên đồng ý. Đến khoảng tháng 3/2017, do mất khả năng chi trả nên bị cáo tuyên bố vỡ hụi, tại thời điểm vỡ hụi, còn 06 dây hụi tháng 3.000.000 đồng đang hoạt động.

Căn cứ vào sổ hụi của bị cáo, xác định bị cáo dùng thủ đoạn gian dối tự ý lấy tên hụi viên để lĩnh hụi chiếm đoạt 657.150.000 đồng của 23 hụi viên của 05 dây hụi tháng, cụ thể như sau:

1. Dây số 1: Hụi tháng 3.000.000 đồng, khui ngày 26/5/2015 (09/4/2015 ÂL):

Dây hụi có 24 phần, gồm 12 hụi viên tham gia 22 phần, bị cáo tham gia 02 phần. Dây hụi đã khui được 23 kỳ, trong đó: có 12 hụi viên và chủ hụi Th thực lĩnh 22 phần hụi. Bị cáo Th tự ý lấy tên hụi viên Nguyễn Thị Thu L phần hụi tại kỳ 23, chiếm đoạt 5.000.000 đồng của 02 lượt hụi viên còn sống, trách nhiệm dân sự 103.300.000 đồng.

2. Dây số 2: Hụi tháng 3.000.000 đồng, khui ngày 23/7/2015 (08/6/2015 ÂL):

Dây hụi có 24 phần, gồm 12 hụi viên tham gia 24 phần. Dây hụi đã khui được 22 kỳ, trong đó: có 08 hụi viên thực lĩnh 11 phần hụi; bị cáo Th tự ý lấy tên 06 hụi viên (Chiêm Ngọc L, Lê Thành T, Hà Thị Phương M, Nguyễn Thị T, Huỳnh Mỹ Q, Hà Thị Kim Th) lĩnh 11 phần hụi tại kỳ 3, 5, 7, 8, 9, 10, 11, 14, 16, 19, 22 chiếm đoạt 322.400.000 đồng của 13 lượt hụi viên còn sống, trách nhiệm dân sự 323.700.000 đồng.

3. Dây số 3: Hụi tháng 3.000.000 đồng, khui ngày 28/3/2016 (20/02/2016 ÂL):

Dây hụi có 24 phần, gồm 12 hụi viên tham gia 21,5 phần, bị cáo tham gia 2,5 phần. Dây hụi đã khui được 13 kỳ, trong đó: có 05 hụi viên thực lĩnh 08 phần hụi; Th tự ý lấy tên 04 hụi viên (Ngô Thị C, Nguyễn Thị Hồng H, Nguyễn Thanh T, Huỳnh Thị Khánh L) lĩnh 4,5 phần hụi tại kỳ 5, 6, 11, 12, 13 chiếm đoạt 158.650.000 đồng của 16 lượt hụi viên còn sống, trách nhiệm dân sự 292.400.000 đồng.

4. Dây số 4: Hụi tháng 3.000.000 đồng, khui ngày 10/5/2016 (04/4/2016 ÂL):

Dây hụi có 24 phần, gồm 16 hụi viên tham gia 23 phần; bị cáo tham gia 01 phần. Dây hụi đã khui được 12 kỳ, trong đó: có 06 hụi viên và bị cáo thực lĩnh 10 phần hụi; bị cáo tự ý lấy tên hụi viên Trần Thị Ngọc H và Phạm Thị Minh T lĩnh 02 phần hụi tại kỳ 9, 11 chiếm đoạt 62.300.000 đồng của 14 lượt hụi viên còn sống, trách nhiệm dân sự 310.100.000 đồng.

5. Dây số 5: Hụi tháng 3.000.000 đồng, khui ngày 31/5/2016 (25/4/2016 ÂL):

Dây hụi có 24 phần, gồm 12 hụi viên tham gia 24 phần. Dây hụi đã khui được 11 kỳ, trong đó: có 04 hụi viên thực lĩnh 08 phần hụi; bị cáo Th tự ý lấy tên 03 hụi viên (Nguyễn Thị T, Phạm Thị Minh T, Trần Thị Thanh H) lĩnh 03 phần hụi tại kỳ 5, 6, 8 chiếm đoạt 108.800.000 đồng của 16 lượt hụi viên còn sống, trách nhiệm dân sự 53.400.000 đồng.

- Đối với dây hụi 3.000.000 đồng, khui ngày 08/02/2017 (12/01/2017 AL), qua điều tra xác định dây hụi này bị cáo không chiếm đoạt của các hụi viên.

Qua điều tra, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nhưng sau đó thay đổi lời khai cho rằng các hụi viên cho mượn hụi để hốt. Bị cáo đã thỏa thuận, cấn trừ tiền hụi giữa các hụi viên đã lĩnh hụi và chưa lĩnh hụi để khắc phục một phần hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra; sau khi bể hụi, bị cáo trả lại một phần tiền hụi đã chiếm đoạt cho hụi viên tổng cộng 1.196.800.000 đồng

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HSST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Mộng Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Mộng Th 10 (Mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2020.

Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/10/2020 bị cáo Lê Thị Mộng Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Luật sư bào chữa cho bị cáo tranh luận: Thống nhất về tội danh của tòa án sơ thẩm đã tuyên, tuy nhiên mức án 10 năm tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội bị cáo là xuất phát từ bị cáo do cha bị cáo bị bệnh nan y, bị cáo thiếu hiểu biết không hiểu hành vi đó là vi phạm pháp luật trong thâm tâm chỉ muốn mượn tạm số tiền đó để lo cho cha. Hậu quả của vụ án sau khi xảy ra bị cáo đã khắc phục toàn bộ, bị cáo đã bán tất cả tài sản thể hiện ý thức không muốn chiếm đoạt của người khác nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo Lê Thị Mộng Th trình bày: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 3 người bị bệnh nan y bị cáo muốn lo cho gia đình nên mới chiếm đoạt hụi chứ không biết đó là hành vi vi phạm pháp luật, sau khi được tòa án sơ thẩm giải thích bị cáo mới biết, nhưng sau đó bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả cho các bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thị Mộng Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 với mức án 10 năm là tương xứng mức độ hành vi của bị cáo, bị cáo kháng cáo không có tình tiết gì mới nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Mộng Th làm trong hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Từ năm 2014, bị cáo tổ chức góp nhiều dây hụi để hưởng hoa hồng. Lợi dụng việc hụi viên tin tưởng, không đến khui hụi nên bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách tự ý lấy tên của hụi viên trong dây hụi để lĩnh hụi, đến khi tuyên bố vỡ hụi tháng 3 năm 2017 bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 657.150.000 đồng của 23 hụi viên, cụ thể như sau:

1. Hà Thị Phương M: Dây hụi số 4: 01 phần với số tiền 4.450.000 đồng;

dây hụi số 2: 02 phần với số tiền 49.600.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 54.050.000 đồng. Bị hại M yêu cầu bị cáo trả số tiền còn thiếu 63.200.000 đồng.

2. Nguyễn Thị T: Dây hụi số 2: 03 phần với số tiền 74.400.000 đồng; dây hụi số 5: 04 phần với số tiền 27.200.000 đồng, dây hụi số 1: 01 phần với số tiền 2.500.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 104.100.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

3. Hà Thị Kim Th: Dây hụi số 2: 02 phần với số tiền 49.600.000 đồng; dây hụi số 3: 02 phần với số tiền 20.400.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 70.000.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

4. Huỳnh Mỹ Q: Dây hụi số 2: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt 24.800.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

5. Ngô Thị C: Dây hụi số 2: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 49.600.000 đồng; dây hụi số 3: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 20.400.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 70.000.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

6. Trần Thị Thanh H: Dây hụi số 3: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 10.200.000 đồng; dây hụi số 4: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 4.450.000 đồng; dây hụi số 5: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 13.600.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 28.250.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

7. Chiêm Ngọc L: Dây hụi số 2: 01 phần với số tiền 24.800.000 đồng; dây hụi số 3: 02 phần với số tiền 20.400.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 45.200.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

8. Lê Thành T: Dây hụi số 2: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 49.600.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

9. Lê Thị Mai D: Dây hụi số 4: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 4.450.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

10. Huỳnh Thị Khánh L: Dây hụi số 3: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 20.400.000 đồng, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

11. Trần Ngọc M: Dây hụi số 5: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 13,600.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

12. Nguyễn Thị Hồng X: Dây hụi số 3: 02 phần với số tiền 20.400.000 đồng; dây hụi số 4: 02 phần với số tiền 8.900.000 đồng; dây hụi số 5: 02 phần với số tiền 13.600.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 42.900.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

13. Nguyễn Thị Mỹ Ph: Dây hụi số 3: 1/2 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 5.650.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

14. Nguyễn Thị Hồng H: Dây hụi số 3: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 10.200.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

15. Tạ Kim L: Dây hụi số 5: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 13.600.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

16. Nguyễn Thanh T: Dây hụi số 3: 02 phần với số tiền 20.400.000 đồng;

dây hụi số 5: 02 phần với số tiền 13.600.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 34.000.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

17. Lê Hương Th: Dây hụi số 4: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 4.450.000 đồng, yêu cầu bị cáo trả lại số tiền thực đóng 13.000.000 đồng.

18. Trần Thị Ngọc H: Dây hụi số 4: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 8.900.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

19. Nguyễn Thị Thu Ng: Dây hụi số 1: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 2.500.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

20. Phạm Thị Minh Tr: Dây hụi số 4: 01 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 4.450.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

21. Phạm Thị Minh T: Dây hụi số 4: 02 phần với số tiền 8.900.000 đồng;

dây hụi số 5: 02 phần với số tiền 13.600.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 22.500.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

22. Nguyễn Thị L: Dây hụi số 3: 01 phần với số tiền 10.200.000 đồng; dây hụi số 4: 01 phần với số tiền 4.450.000 đồng. Tổng số tiền bị chiếm đoạt là 14.650.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

23. Trần Ngọc T: Dây hụi số 4: 02 phần với số tiền bị chiếm đoạt là 8.900.000 đồng, bị cáo đã trả xong.

Bị cáo bị truy tố, xét xử bị cáo tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) là đúng căn cứ pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ làm ảnh hưởng đến đạo đức của xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng lại cố tình tự ý lấy tên của các hụi viên tham gia để chiếm đoạt với tổng số tiền 657.150.000 đồng nên cần xử lý nghiêm bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Thị Mộng Th:

Bị cáo thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tiền nhiều lần của nhiều bị hại là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi vỡ hụi bị cáo đã trả và nộp khắc phục hậu quả xong cho các bị hại với tổng số tiền 641.450.000 đồng, tại phiên tòa các bị hại Ng, T yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết gì mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Thị Mộng Th phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thị Mộng Th - Giữ nguyên bản án sơ thẩm như sau:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Mộng Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Mộng Th 10 (Mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2020.

2. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Thị Mộng Th phải chịu 200.000 đồng.

4. Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 765/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:765/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;