Bản án 76/2023/HS-ST về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 76/2023/HS-ST NGÀY 20/03/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 75/2023/TLST-HS ngày 17/02/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST-HS ngày 06/3/2023 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn M, sinh năm 1988; Giới tính: Nam.

HKTT: Khu vục B, phường L, quận Ô , thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ: Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1968; mẹ đẻ: Lê Thị T, sinh năm 1971; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2. Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1994; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/12/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại: Chị Sầm Thị O, sinh năm 1995; HKTT: Thôn V, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 8/2022, Huỳnh Văn M, có HKTT: Khu vực Thới Hòa B, phường Long Hưng, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đặt mua trên mạng 01 sim điện thoại số 089673x289 với giá 90.000 đồng để phục vụ cho công việc (sim điện thoại này trước là của chị Sầm Thị O, sinh năm 1995 HKTT: thôn V, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh sử dụng, đến tháng 05/2022 thì không sử dụng nữa). Sau đó, M lắp sim điện thoại này vào máy ĐTDĐ Nokia đen trắng của M. Ngày 15/10/2022, chị O có ra cây ATM rút số tiền là 1.000.000 đồng từ số tài khoản 03510007859xx của ngân hàng Vietcombank. Do trước đó chị O có đăng ký báo tin nhắn số dư tài khoản trên số điện thoại 089673x289 (hiện M đang sử dụng) nên ngày 16/10/2022 M thấy tin nhắn có nội dung “Đã rút 1.000.000 đồng từ số tài khoản 351000785xxx, số dư còn lại trên tài khoản là 32.819.301 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn trên M đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên của chị O. M lấy điện thoại Sam sung Galaxy A7 màu xanh đăng nhập vào ví điện tử momo bằng số điện thoại 089673x289, sau đó thực hiện liên kết thành công ví momo số điện thoại 089673x289 với tài khoản ngân hàng Vietcombank có số tài khoản 351000785xxx của chị O. Sau khi liên kết thành công ví momo số điện thoại 089673x289 với tài khoản ngân hàng Vietcombank có số tài khoản 351000785xxx của chị O thì M có toàn quyền sử dụng số tiền trong tài khoản này. Ngày 16/10/2022 M chuyển số tiền 1.920.000 đồng từ tài khoản 351000785xxx của chị O về ví momo dùng số điện thoại 089673x289 (lúc này thông tin ví momo Sầm Thị O). Sau khi đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền của chị O về ví Momo, M đã làm lệnh chuyển 20.000 đồng và 1.900.000 đồng về ví momo sử dụng số điện thoại 0128.694.1xxx (nay là 07869411xx) (lúc này ví momo có thông tin là Nguyễn Văn T2). Để kiểm tra xem ví momo số 07869411xx có tiền chưa M thoát số điện thoại 089673x289 trên ứng dụng momo thay bằng số 07869411xx thì M thấy tài khoản thông báo nội dung “không nhận được tiền do chưa xác thực tài khoản”. Do đã sử dụng ví momo nên M biết muốn nhận tiền và sử dụng các dịch vụ thì phải xác thực tài khoản. M nhờ vợ là chị Nguyễn Thị N2, sinh năm 1994 HKTT ở D1-18, đường số 33, KV Thạnh Mỹ, phường Thường Thạch, quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ xác thực khuôn mặt, căn cước công dân đổi thông tin từ Nguyễn Văn T2 sang Nguyễn Thị N2. Sau khi xác thực thành công thì ví momo sử dụng số điện thoại 078694xxx đã nhận được số tiền là 1.920.000 đồng. Trong hai ngày 17/10/2022 đến 18/10/2022, M tiếp tục chuyển số tiền 30.880.000 đồng từ tài khoản 351000785xxx của chị O về ví momo dùng số điện thoại 089673x289 (lúc này thông tin ví momo Sầm Thị O). Ngày 09/11/2022, M tiếp tục nhờ chị N2 xác thực tài khoản ví momo sử dụng số điện thoại 089673x289 chuyển từ Sầm Thị O sang Nguyễn Thị N2. M đã chi tiêu cá nhân hết số tiền là 27.161.174 đồng trong tổng số 32.800.000 đồng M chiếm đoạt của chị O. Đến ngày 14/11/2022, chị O ra ngân hàng Vietcombank chi nhánh Kinh Bắc để đăng ký dịch vụ Internet Banking cho số TK 03510007859xx thì phát hiện tài khoản của chị đã bị mất số tiền 32.800.000 đồng nên chị O đã đề nghị ngân hàng làm các thủ tục để khóa các tài khoản liên kết với TK 03510007859xx. Ngày 19/11/2022, M đăng nhập Ví momo số điện thoại 089673x289 thì thấy tài khoản đã bị khóa.

Ngày 03/12/2022, chị O đến Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du trình báo sự việc.

Ngày 04/12/2022, Huỳnh Văn M nhận thức hình vi của mình là vi phạm pháp luật nên M đã đến Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại Nokia đen trắng bên trong có lắp 02 sim; 01 điện thoại Sam sung Galaxy A7 màu xanh bên trong có lắp 02 sim và số tiền 27.200.000đ.

Ngày 27/12/2022, chị Sầm Thị O đã giao nộp cho CQĐT số tiền 5.600.000 đồng để phục vụ điều tra.

Ngày 11/01/2023, Cơ quan điều tra đã Quyết định trả lại cho chị O số tiền 32.800.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản, chị O không có yêu cầu gì khác về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho M.

Tại cơ quan điều tra, M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 23/CT-VKS-TD ngày 16/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo Huỳnh Văn M về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viên thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 290 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo M khai nhận nội dung Cáo trạng truy tố là đúng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 23/CT VKS-TD ngày 16/02/2023. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1/ Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn M phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viên thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

2/ Hình phạt và điều luật áp dụng: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 290; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 BLTTHS:

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn M từ 14 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2022. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

*Vật chứng thu giữ: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia đen trắng bên trong có lắp 02 sim; 01 điện thoại Sam sung Galaxy A7 màu xanh bên trong có lắp 02 sim dùng phạm tội.

Dân sự: Người bị hại không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo sau khi nghe luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, bị cáo thừa nhận có tội và không tranh luận, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 16, 17, 18/10/2022 , Huỳnh Văn M đã sử dụng mạng máy tính, mạng viên thông, phương tiện điện tử để chuyển số tiền 32.800.000 đồng từ tài khoản 351000785xxx của chị O về ví momo dùng số điện thoại 089673x289. M nhờ chị N2 ( là vợ M) xác thực tài khoản ví momo sử dụng số điện thoại 089673x289 chuyển từ Sầm Thị O sang Nguyễn Thị N2. M đã chi tiêu cá nhân hết số tiền là 27.161.174 đồng trong tổng số 32.800.000 đồng M chiếm đoạt của chị O.

Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viên thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 290 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an sâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của chị O. Do vậy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tự nguyện trả lại số tiền đã chiếm đoạt, bị cáo ra đầu thú, người bị hại xin cho bị cáo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng vụ án:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia đen trắng bên trong có lắp 02 sim; 01 điện thoại Sam sung Galaxy A7 màu xanh bên trong có lắp 02 sim dùng phạm tội.

Dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Liên quan trong vụ án còn có:

- Đối với chị Nguyễn Thị N2, sinh năm 1994 (vợ M) là người đã cho M mượn hình ảnh và CCCD để xác thực 02 tài khoản ví momo bằng số điện thoại 089673x289 và 07869411xx. Tuy nhiên, khi nhờ chị N2 M nói là phục vụ cho công việc, chị N2 không hỏi và cũng không biết việc M thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra nhắc nhở chị N2 là phù hợp.

- Đối với những cá nhân, tổ chức đã được M chuyển tiền để chi tiêu mua hàng hóa, Cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ không quen biết M, không là người trực tiếp giao dịch với M mà chỉ là người cung cấp hàng hóa M mua qua mạng và không biết tiền M chuyển là do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn M phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” Áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 290; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136; Điều 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn M 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2022. Tiếp tục giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia đen trắng bên trong có lắp 02 sim; 01 điện thoại Sam sung Galaxy A7 màu xanh bên trong có lắp 02 sim dùng phạm tội.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2023/HS-ST về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:76/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;