Bản án 76/2021/HS-PT ngày 12/03/2021 về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 76/2021/HS-PT NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA QUA BIÊN GIỚI

 Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:21/2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2020/HS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện HN.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Phan Văn Ánh S, sinh năm 1985 tại An Giang; Nơi cư trú: Ấp H xã T, thị xã TC, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Phan Văn Th và bà Trần Thị T; có vợ (đã ly hôn) và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không; Hiện bị cáo đang tại ngoại (có mặt).

2. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1981 tại An Giang; Nơi cư trú: Ấp Q, xã L, thị xã TC, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ; còn ông Nguyễn Ngọc Ch và bà Ngô Thị Nh có vợ và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không; Hiện bị cáo đang tại ngoại (Có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án Viện kiểm sát không kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ ngày 29/8/2020, tại thủy phận sông Tiền thuộc Ấp 1, xã TP 1, huyện HN, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện HN phối hợp Đội kiểm soát Hải quan – Cục Hải quan tỉnh Đồng Tháp và Công an xã Thường Phước 1 tuần tra phát hiện Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th đang điều khiển phương tiện tắc ráng (vỏ lãi) loại Composite, đặt máy nổ chạy từ Campuchia về Việt Nam, yêu cầu dừng phương tiện kiểm tra thì phát hiện trên tắc ráng đang chở 27 con heo (lợn) còn sống, lực lượng làm nhiệm vụ yêu cầu xuất trình giấy tờ có liên quan đến nguồn gốc của số heo (lợn) trên những cả hai bị cáo Phan Văn Ánh S và Nguyễn Văn Th không xuất trình được nên Cơ quan chức năng tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ nhiều vật chứng có liên quan.

Quá trình điều tra, bị cáo S khai nhận vào khoảng 18 giờ ngày 28/8/2020 một người đàn ông không rõ họ tên địa chỉ cụ thể thuê bị cáo sang Campuchia vận chuyển heo (lợn) về Việt Nam nhưng không nói giá chỉ nói khi nào về đến Việt Nam sẽ tính tiền và S đồng ý. Sau đó, S điện thoại rủ Th cùng đi vận chuyển, Th là người điều khiển tắc ráng, S có trách nhiệm khi đến Campuchia thì tiếp nhận và kiểm tra số lượng heo (lợn) đem xuống tắc ráng. Th điều khiển về Việt Nam, S sẽ trả cho Th từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

Ngoài ra, các bị cáo S và Th còn khai nhận sáng ngày 28/8/2020 có vận chuyển thuê cho người đàn ông trên 08 con heo (lợn) về Việt Nam, đã nhận tiền vận chuyển là 750.000 đồng.

Tại Biên bản định giá tài sản số 21/KLHĐĐGTS – TTHS ngày 01/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện HN kết luận: 27 con heo (lợn) có tổng khối lượng là 2.646 kg, trị giá 211.680.000 đồng.

Tại bản án số 41/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện HN đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn Ánh S 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 04 tháng 12 năm 2020, các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Tỉnh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” theo khoản 1 Điều 189 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Xét mức hình phạt 08 tháng tù đối với bị cáo Phan Văn Ánh S và 06 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Văn Th mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với các bị cáo là phù hợp, đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Sau khi án sơ thẩm tuyên, các bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do các bị cáo có lai lịch rõ ràng, nơi cư trú ổn định, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, riêng bị cáo Phan Văn Ánh S đã ly hôn vợ và còn nuôi con đang đi học. Xét thấy, lý do các bị cáo nêu ra đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với các bị cáo. Do đó, việc các bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo là không có căn cứ để xem xét. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên phần Quyết định của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không ý kiến chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện lao động nuôi bản thân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, Kết luật định giá tài sản, phù hợp với lời khai trong qua trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th đã có hành vi vận chuyển thuê 27 con heo (lợn) từ Camphuchia về Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, khi đến địa phận xã Thường Phước 1, huyện HN thì bị Cơ quan chức năng phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang. Theo Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì 27 con heo (lợn) có giá trị là 211.680.000 đồng.

[3] Khi thực hiện hành vi, các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi vận chuyển hàng hóa không giấy tờ qua biên giới là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, đặc biệt, trong tình hình hiện nay việc phòng chống dịch bệnh covid 19 tuyến biên giới đang được Nhà nước và Nhân dân quan tâm và thực hiện nhiều biện pháp phòng, chống. Hành vi của các bị cáo thể hiện các bị cáo xem thường pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” theo khoản 1 Điều 189 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai đối với các bị cáo.

[4] Xét mức án 08 tháng tù đối với bị cáo Phan Văn Ánh S và 06 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Văn Th mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là phù hợp đối với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, đã xem xét đến vai trò của từng bị cáo trong vụ án. Sau khi án sơ thẩm tuyên các bị cáo có kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ gì mới để Hội đồng xét xử làm căn cứ xem xét cho các bị cáo ngoài những tình tiết mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên phần Quyết định của bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với các bị cáo.

[5] Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th. Giữ nguyên phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th.

Căn cứ khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Ánh S 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

Về án phí: Các bị cáo Phan Văn Ánh S, Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1055
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2021/HS-PT ngày 12/03/2021 về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới

Số hiệu:76/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;